Phủ dầu xã khánh Hòa, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, từ thành phố Ninh Bình xuôi về nam 4km, du khách bắt gặp một cảnh chợ quê chợ quê, đó là chợ dầu họp mỗi tháng chín phiên vào các ngày mùng một mùng bốn mùng bẩy âm lịch trước đây khu chợ là một vùng đất rộng lớn nằm cạnh quốc lộ số 10, có năm cây đa cành lá sum suê bốn mùa xanh tốt đi tiếp theo là con đường cát mịn, vào giữa làng ta nhìn thấy một cây gạo già nua thân hốc hác cành khẳng khiu nhưng xuân nào cũng đỏ hoa chào đón.
Thật là: đầu làng rợp bóng cây đa
giữa làng cây gạo ngã ba cây đề
Tiếc thay những cây ấy nó chỉ còn trong ký ức, nó đã chết một cách bí hiểm, theo bao thăng trầm, biến đổi con đường uốn khúc hình rồng năm xưa, do bà chúa tạo nên nay khúc còn, khúc mất thay vào đó là con đường trải nhựa bon bon thẳng tới phủ dầu, nhưng dù đi theo đường nào, du khách cũng lần lượt bộ hành thăm thú địa danh, của một vùng quê văn vật
Xin bắt đầu từ chợ dầu, Từ khu chợ đầu làng, qua cánh đồng ả Thượng, ta thấy bóng dáng, một ngôi đền rêu, phong núp trong vòm lá, đó là đền đông, đền tọa lạc tại xóm đông, hướng Đông Bắc, thờ Ba vị phúc thần, đó là, Đức Hòa Đức, Đức a hành, và Đức ô lạc, trấn thủ địa đầu phía Bắc phủ dầu, lịch chiều sắc phong, thượng đẳng tối linh tôn thần, ngày trước đền còn lưu truyền đôi câu đối, chỉ xích, thiên nhan tin củng Bắc, thanh bình, địa diện nhật thăng Đông,
Qua đêm đông, ta đặt chân lên xứ vườn cúi, một dải gồm nho nhỏ đứng phía sau đền, nơi tiếp giáp với làng bợi Ninh Phúc, hình dáng như một sân con bài, sau ngọ môn, có lẽ tiền nhân nhắc nhở ai đã đến đây, đều phải cúi đầu chào hỏi, qua vườn cúi ta bắt gặp một giải gồ dài hơn, hình thù giống như một con rết, vươn mình Dương đôi mắt hướng chầu về phủ, đó là mả gạo, Tên chữ, là cảo mả tự, theo tà áo cổ tích cảo mả tự có hình dáng một con ngô công, xưa kia cây cối ôm tùm, cỏ gai rậm rạp, tự có một loại tiền đồng niên hiệu khai Nguyên, thánh Nguyên, hoàng Phạm, vân vân, thường hay đùn lên từng cọc, khi thì vài chục đồng, có lúc hàng xâu, hàng chuối, lạ thay nét chữ còn y nguyên, màu đồng đỏ thắm, ai nhặt được thưởng cho là vận may hiếm có,
“Ai về mà gạo mà xem
Tiền đồng lúc nổi, lúc chim lạ thay
Ai người, vận tốt duyên may
Nhặt được tiền này gia nội an khang”
Một hiện tượng kỳ lạ, một nguyên do khó để phân giải, không biết những đồng tiền này có tự đâu, mà nghìn thu không nhòa linh dấu, cuối dải gồ, tức là đầu con ngô công, có một ngôi đền đó là đền Thượng, đền Thượng thuộc địa bàn xóm thượng, hướng tây nam, thờ hai vị phúc thần, đó là Đức ngọ Vương, và Đức sơn thần, sắc phong, dực bảo trung hưng đương cảnh, thành hoàng Trung đẳng tôn thần tối linh, trước đây đền khang trang lắm, bên tả có tư văn, bên hữu có tư Vũ, tư văn thờ Đức khổng tử, tăng tử, nhan hồi, và các vị hiền triết đạo nho, tự Vũ thờ các doanh nhân cùng các khóa sinh trong xã, hằng năm vào tháng 10 âm lịch có lệ tế tự, nên có câu vè,,
14 tư văn 10 rằm tư Vũ
trẻ già đông đủ, tiến lễ thường tân
Trước cửa đền của một cái giếng, một cái ao, không bao giờ hết nước, nước giếng đền vừa trong vừa mát, còn ao làng, thì đầy ấp cá tôm, sân đền, nào hoa thơm quả ngọt, có hàng nhãn sum suê bốn mùa xanh tốt, có thạp đá, khánh đá, long đình đá, đồ sộ nguy nga, ôi thật là một di sản văn hiến vô cùng quý giá, tiếc thay vào đầu thập kỷ tám mươi của thế kỷ hai mươi, Những lưỡi ben của tử thần, đã san ủi nơi đây thành ruộng, năm 1999, dân trong làng tôn tạo lại hậu cung, sau đó làm Thêm năm gian tiền tế,
Thật là, cảnh cũ người xưa đã về trời
đau lòng nhân thế lắm ai ơi
phá đền thì phải làm đền lại
vạn cổ câu ca cấm sai lời
Đứng trên bờ giếng thượng, nhìn về hướng Tây, một ngôi đền rêu Phong cổ kính, đó là đền rậm, đền rậm thuộc địa bàn xóm rậm,
Toạ lạc hướng tây nam, đền thờ Ba vị thành hoàng, đó là, Đức lịch lộ, Đức cao cường, và bà triệu ẩu, lịch lộ và cao cường, là hai vị tướng, phù đình khai quốc, nên ở đền, có đôi câu đối,
Đinh Triều Vạn Thắng trung quân tướng,
Nam Quốc Thiên thu thượng đẳng thần,
Bà triệu, Trinh Nương, nữ anh hùng dân tộc đất Triệu Sơn, Thanh hóa, đã phất cờ khởi nghĩa, chống lại quân ngô, hồi đầu thế kỷ thứ ba, cho nên, khi lọt lòng mẹ đã thấm đượm lời ru,
Du con, con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa banh cho voi,
muốn coi lên mà coi,
Coi bà Triệu tướng, cưỡi voi đánh cồng,
Đứng trước cửa đền, nhìn về phía Nam, thấy một dải gồ um tùm, thấp thoáng bóng am thanh cảnh vắng, đó là gồ chùa dê, gồ chùa dê, như một ốc đảo, giữa biển lúa vàng, nếu đứng từ phủ dầu nhìn ra, ta nhận thấy dải gồ, giống như một con dê vàng, chầu về Phật tổ, giữa gồ có một am nhỏ, nấp dưới một rừng hoa đại rực rỡ, Hương hoa, gió tây đưa nhẹ về cổng tam quan, một mùi thơm oai linh tao nhã,
Dương linh tự, cảnh hữu tình,
giữa rừng hoa đại, tươi xinh bốn mùa,
ngọt ngào, gió thoảng hương đưa,
thanh tao, cảnh phật, cảnh chùa thân yêu,
Chùa dê, tuy nhỏ nhưng phụng thờ như chốn đại thuyền quang, cũng tam thế Di Đà, tả quan long, hữu thánh Hiền, cũng tòa cửu long mây, bồng ngũ sắc, tiếc rằng dấu tích còn đó, tự đường biến dạng nơi nao, ôi, có lẽ, chữ sắc sắc, không không, của đạo thiền, là vậy, qua chùa dê, đến khu gồ ngệt, xóm đầu voi, một giải gồ rộng rãi vuông vứt còn lưu lại, trong ký ức dân gian, đó là những thót voi tập trận, cách đó không xa về hướng Tây, có một giải gồ, tên là mãi mã, nơi đây bẩy trăm năm trước, là chiêu mã quán, của ngự câu Vương, tuấn mã từ khắp nơi được đưa về đây, giúp sơn hà xã tắc,
ngựa hay khắp chốn đem về,
bán thì không bán, mua thì cũng không,
góp vào, bảo vệ non sông,
diệt thù, sát Thát, sức chung mọi người,
Tiện đường, ta xuống xóm thuần đầu, thăm dòng hoạch vạc, dòng sông nhỏ hiền Hòa, chở phù sa bồi đắp, cho đôi bờ tươi tốt, nơi đây bẩy trăm năm trước, là mạch đường thủy, nối liền thái vi cung với đại bản doanh mả lăng, đất thuần đầu mới hình thành trên 700 năm, tương truyền xưa, là trại thủy chiến ngự câu Vương, từ thời hậu lê về trước, nơi đây, điền vô nhân canh, lộ vô nhân hành, mãi đến năm Cảnh Hưng, niên hiệu Vĩnh tộ 1710 có ông Phạm công Yên, người ở vó, chức điện tiền, chỉ huy sứ chúa Trịnh tông, về khai dân lập ấp, tiếp đến ông Trịnh Văn lượng chức chánh tổng, và mở mang xóm bầu, rồi dân trong xã xuống an cư lạc nghiệp, lấy tên là xóm thuần đầu, vì chữ thuần, là con Nghé, chữ đầu, là địa đầu, nguyên do, đây là nơi tiếp giáp giữa ba huyện, lại là đất địa đầu, nên cư dân đã đến đây phải đề phòng mấy mặt, thiên nhiên hằng năm lũ thượng nguồn, sông hoàng long đổ về gây bao cơ cực, trộm cướp, giặc giã nhiễu lại bất kỳ, nên họ tự ví mình như, trai lập trại, tựa gái, ở hàng cơm, mềm dẻo, cứng rắn, đều xử lý được cả, nên cổ nhân đã đặt tên cho xóm là thuần đầu, Khỏe mạnh có, hung hãn có, hiền từ có, tự cho mình, là nghé mới sinh, không kinh gì hổ, xóm thuần đầu, có đền khoai hướng đông nam, thờ Ba vị thượng đẳng, hai vị Dương, một vị âm, đó là, Đức hốt hoảng, Đức Minh mang, và Đức chàng Lang,
Tạm biệt xóm thuần đầu, ta quay về thăm đình Yên Khang và xóm nội, đình Yên Khang xưa thờ công đồng bẩy vị thành hoàng, kể cả ông hoàng và bà chúa, xóm nội còn có ngôi đền Trung hướng tây nam, thờ Đức lịch lộ, từ đền Trung nhìn chếch về hướng đông, vài trăm dặm có một dải gồ, có tên là ba bồng, vườn giáo nơi đây 700 trước, là những bễ rèn, nên hàng nghìn binh khí tốt để chiến đấu, tên vườn giáo do hậu thế đặt ra, để nhớ mãi một địa danh lịch sử,
Vườn giáo, còn vang tiếng búa rèn,
làm nên, khí giới diệt quân Nguyên,
hình bóng ngự câu, còn phảng phất,
nghìn năm danh tiếng, vẫn lưu truyền,
Rời vườn giáo quay ra, ta vào thăm đền ông Cao Các,, (tục gọi là đền
ông Già), Với lòng mến mộ đức chí nhân, chí hiếu, một tấm gương tận tụy
quên mình, Có lẽ, cổ nhân tôn thờ ông để răn dạy đời sau chữ tâm, chữ đức,
Nên cửa đền còn lưu đôi câu đối,
“Ất vị, kinh dinh, linh đắc địa,
Đinh triều, thái tích, hiển đông A,”
Tiện đường rẽ xuống cống Cao, thăm vụng chùa Đồng, Một dư địa chí
nằm ở phía Đông Nam đại bản doanh, Ngày trước là nơi gom góp đồng sắt,
để đưa về khu vườn Giáo rèn khí giới, Có lẽ, dấu linh mà tạo vật không nỡ để
mất, nên trong vụng vẫn còn một phiến đá to, Qua vụng chùa Đồng, ta ngược
lên phía Bắc, gặp một hồ nước khá rộng, nằm áp sau phủ Dầu, Đó là ao Huế:,
Một khu ao, trước đây chuyên trồng sen hồng, sen trắng, dâng tiến phật đài,
Nay ao đã thành ruộng, nhưng cái tên, vẫn còn lưu luyến mãi, Độ dầy bùn ao
Huê, thì trâu sa vào không rút lên được, Thế mới biết, truyền thuyết xưa là có
thật, vốc chụm nước trong từ ao Huê, rửa sạch bụi trần, ta bước lên vườn
Cống, Giữa dải gỗ mênh mông, có một cây thị già nua, ruột trống không, mà
lá cành xanh tốt, Không hiểu, cây có tự bao giờ, chỉ biết rằng đời nối đời được
cây cho, hương thơm, quả ngọt, Dân làng đặt tên là cây bất tử:,
Bất tử, vì cây, ở với đời,
Thăng trầm, bao kiếp, sống đầy vơi,
Đạn thù, trúng bụng, cây không chết,
Bão táp, phong ba, gốc chẳng rời,
Hương thơm, theo gió, bay đi khắp,
Quả ngọt, vị ngon, hiến cho đời,
Chắp tay, bái lậy, cây cổ tích,
Trước chốn, phật đài, gió reo vui,
Nơi đây, bẩy trăm năm trước, là nơi tiếp nhận lòng hảo tâm của thập
Phương, cho cuộc kháng chiến, Cống và tự nguyện, là vinh quang, cống vì xã
tắc sơn hà, Nghĩa cử cao đẹp ấy, thơm, còn thơm mãi, Tiện đường ta sang gồ
quần Ngựa, nay là UBND xã, hình dung, thấy hàng trăm ngựa chiến đang sẵn
sàng xuất trận,
Gồ quần ngựa, bao đời, còn đó,
Như bảo tồn, chuyện cũ, tích xưa,
Trải bao, khói phủ, sương mờ,
Vẫn còn, sáng mãi, ngọn cờ, diệt Mông,
Bước tiếp về phía Tây, nghe thoảng đâu đây mùi hương đồng gió nội,
Có gì đó, ngọt ngào, ấm cúng lan xa, Trước mắt, ta, một cây đa, không, một
cặp đa, cây to trùm cây nhỏ, rễ to, ôm chặt thân con, Chẳng hiểu tự bao giờ,
ai trồng mà đến hôm nay có đa,, Mẫu tòng tử, Dưới bóng đa thấp thoáng một
ngôi đền, đó là đền Xuân, tên tự, là Lạc Xuân Đài, Lạc Xuân Đài, tọa lạc, tại
xóm Xuân, hướng Tây Nam, thờ một vị trung đẳng tôn thần, đó là đức Ngọ
Vương, Tương truyền, nơi đây trước kia là rừng rậm, Một dải xanh tươi ngút
Ngàn, kéo mãi đến Rừng Bồ, Mã Mây, Mả Lăng, bao quanh, Linh Nha Tự,
giữa nơi âm u tịch mịch, xuất hiện một cây chò cao vút, tán trùm tỏa bóng
một vùng, Thường khi, vào giữa trưa trên ngọn cây, xuất hiện một cụ già râu
tóc bạc phơ, mặc quần áo đỏ, đứng trông về hướng Tây Nam, Chuyện lạ, làm
mê hoặc lòng người, Hỏi ra mới hay, đó là đức Ngọ Vương, giáng thế, Điềm
lành xuất hiện, Vượng khí bay lên, Năm Quý Mùi, 1043, các cụ xây một lầu
thờ nhỏ ngay dưới gốc cây, sắm bài vị, lỗ nhang, trọng ghi, “Đương cảnh
thành hoàng tối linh tôn thần”, ngày ngày, đèn nhang bát vọng, Năm Bính
thân 1286, ái nữ triều Trần, là Huyền Tư công chúa, về tu tại phủ Dầu, đã cho
tu sửa lại, Trải bao thăng trầm biến cổ, gió táp, mưa sa đền xuân đã xuống
cấp nghiêm trọng, Năm Bính Tuất 2006, chị Phan Thị Bích Hằng, người con
của quê hương, đi công tác xa, hảo tâm tài trợ chính, Cùng nhiều nhà tài trợ
khác, và bà con quê hương, xây lại ngôi đền nguy nga, bền vững,
Cảm mộ, biết bao, tấm lòng vàng,
Xuân đài, từ nay, được khang trang,
“Tỷ dân, hộ quốc” an thánh đức
“Minh cao, nhất tuệ", phúc lưu quang,
Rời đền Xuân, về phía Nam không xa, ta lạc vào khu Rừng Bồ cũ, (nay
là xóm Bổ), Là nơi tích tụ lương thảo, nuôi quân năm xưa, Qua gồ Mã Mây,
xuống ao Miễu, vừa trong vừa mát, Rửa chân tay, chuẩn bị bước vào thăm đại
bản doanh, tại gồ Mả Lăng, Ôi, những viên gạch, bát tràng xưa, còn đó, nền
Móng cũ, còn đây, Thật là:,
Dù rằng, có tự, ngàn xưa,
Di chỉ, để lại, chưa mờ, dấu son,
Trải bao, gió núi, mưa ngàn,
Bảy trăm, năm lẻ, vẫn còn, tích xưa,
Đây, truyền thống, của ông cha,
Diệt thù, gìn giữ, nước nhà, vẹn nguyên, !
Bái phục tiền nhân, lòng làng tới cửa phật đài, Đó là phủ Dầu, tên
chữ, là, Linh Nha Tự, Nghỉ chân dưới gốc muỗm, ngắm quan môn, thả hồn, vào
Cõi, xa xăm, ta như lạc vào, bồng lai là vậy,
Trước cửa thiền môn, hai pho tượng hộ pháp, đổ sộ oai nghiêm, phóng
cặp mắt thần soi rõ, lòng chính, tà, thiện ác, Sẵn sàng cứu lành, diệt ác, bảo
vệ pháp giới thiền môn, Bài trí hai bên, Bên tả có tượng, Thập bát long thần,
uy nghiêm, đường bệ, với bộ phẩm phục đại trào, Đôi mắt long lanh, nhìn ra
cõi tục, hình như ngài đang suy tư phán xét lòng lành, giữ, để trừ tai, dáng
phúc, Bên hữu, có tượng Đức thánh hiền, mũ thất phật đội đầu, áo cẩm lan già
trang, mình mặc, Phong thái từ bỉ, tâm tư hỉ xả, Như đang mở rộng lòng phổ,
khuyến tới, những người hiếu kính hiển lương,
Trước tòa tam bảo trang nghiêm, tuy phụng sự, còn đơn sơ, nhưng đượm
vẻ uy linh, trang nhã, rực rỡ muốn ánh hào quang, như đang xao động lòng
kính tín, Bước chân vào chính điện, lòng lành, giũ sạch bụi trần, mắt
hướng về nội cung, ôi, một bệ sen, bằng đá xanh, cổ kính lạ kỳ, vừa thanh tao,
vừa vững chãi. Từng phiến đá to, nhỏ, khác nhau, nhưng vuông thành sắc cạnh,
được gắn ghép, khéo léo, thành một khối chữ nhật khổng lồ, đường nét hoa
văn cực kỳ tinh xảo,
Chính diện mặt tiền, có lưỡng long chầu, bồ đề, tiếp đó tản ra hai bên, và
hai đầu bệ, chia làm 4 ô họa tiết, điêu khắc, theo lối long vân khánh hội, con
bên tả nhả ngọc, con bên hữu phun châu, Tất cả ẩn hiện, qua làn mây ngũ sắc,
ngửng đầu, dương mắt hiền từ, như đang lắng nghe tiếng kệ lời kinh vọng về,
từ Ngân Sơn Thíu lĩnh, Toàn thân bệ, được cấu trúc theo kiểu chân quỳ, vân
ám, bốn góc, có bốn con đại khổng tước, (chim thần Sa mu ra), vươn mình ưỡn
ngực, nâng đỡ tòa sen, Đó là loài chim, trong thời hỗn độn, hồng mang đã
biết, theo lành bỏ dữ, theo đức Như lai, tu hành chính quả, Loài chim đó được
phật tổ ban, “Nam vô, phật mẫu, đại chuẩn, đề minh vương, bồ tát,
Tầng trên cùng của bệ đá, là ba lớp cánh sen, rồng chạy đều bốn mặt,
Có lẽ, người thợ điêu khắc xưa, đã mượn tiết họa cánh sen, để biểu đạt ý tưởng,
cho ba kiếp luân hồi, Mỗi đường nét hoa văn, đều mang sắc thái, của đạo
thiền. Đến đây ai ai, cũng kính phục bàn tay tài hoa, của nghệ nhân thuở
trước,
Bệ đá hoa sen phủ Dầu là một công trình văn hóa vĩ đại được quan tâm
khảo cứu rất nhiều lần. Nếu như không còn bệ nào lớn hơn thì đây là một bệ
đá hoa sen độc nhất vô nhị. Cho nên ở phủ còn lưu câu
“Tự đài ngật lập, tọa thạch nguy nga, uyển nhiên thiên giới, An Nam
đệ nhất danh lam tự".
Bệ này ra đời vào thời Lý Thái Tông (1028 - 1054) đến nay vẫn còn
nguyên vẹn. Tương truyền xưa kia trên bệ đá hoa sen có thờ ba bát hương
sành, bốn góc có bốn lỗ để cắm cọc che bằng phên tre nứa lá. Ngày nay trên
bệ đá được đặt ba pho tượng tam thế sơn son thiếp vàng do thất bá trùng tu
tôn tạo năm Diên Thành thứ 5 triều Lê (1582).
Hai đầu bệ sen được đặt tượng ông hoàng bà chúa. Bên tả tượng Huyền
Tư công chúa đầu đội mũ tỷ lư, mình mặc áo cà sa ánh vàng đang ngồi tham
thiền ngộ đạo. Bên hữu tượng hoàng tử ngự câu vương với bộ phẩm phục đại
trào, đầu đội mũ cánh chuồn, lưng đeo đai ngọc.
Rời chính điện ta vào thăm nội cung: Một nơi thiên trụ mới được tái
tạo năm 1991. Bước lên thềm đá ta gặp đôi câu đối.
“Hiển tích Đông A phật pháp chân truyền lưu bảo tịch.
Trúc lâm Thiền Phái phạn đài đạo ngộ giảng kim kinh”
Nội cung ngày trước dẫn dắt từ 14 gian hành lang trên chùa thượng
xuống. Nhưng đã bị hư hại trong chiến tranh. Nay mới được tái tạo lại để
phụng thờ: Bên tả thờ bà Chúa, bên hữu thờ ông Hoàng, cả hai gian thờ này
đều cung cấm. Chính giữa thờ tượng bán thân, chủ tịch Hồ Chí Minh. hai bên
thờ hai ông thái học sinh Tống Văn Triều, Tạ Như Thủy và bia ghi tên các
liệt sỹ của quê hương hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ.
Tuy cung điện xưa bị hư hại; nhưng những di vật quan trọng như Long
ngai, Thánh vị, mũ Thau rút, áo Long cổn vẫn còn. Đó là những di sản văn
hoá quý báu được giữ gìn từ năm vĩnh tổ thứ 5 (1709) đời vua Lê Hiển Tông
cho tới nay,hai chữ “Tỷ rẫn hộ quốc” được khắc đậm và thể hiện trên những
tấm sắc phong của các tiền triều. Tiếc rằng sắc Lê triều bị cháy năm 1951 do
chiến tranh gây ra.
Lịch đại gia phong
“Dực bảo trung hưng,
hộ quốc công thần”
sáng ngời muôn thuở.
“Trần gia khai sáng tự đường
thiên tài lưu truyền ân thánh đức.
Nam quốc danh lam thắng tích, ức niên hương hỏa hiển thần công”
Bước xuống nhà tổ luận đàm, ngước nhìn lên pho tượng tổ Đạt ma dáng
từ bi tự tại: Người đã sáng lập ra thảo đường thiền phái từ nước Thiên Trúc
qua Đại Đường tới nhiều nơi. Với tấm lòng tế độ chúng sinh mà chẳng quản
muôn trùng gian khó thật đáng để muôn đời tôn kính. Người đã được tôn
sùng là “Tây thiên đông độ, nam việt lịch đại tổ sư”. Tư tưởng ấy đã lan tỏa
tới các tín đồ và thiện nam tín nữ suy ngẫm bồi đắp cho chốn thiền môn ngày
thêm nguy nga tráng lệ.
Còn trời còn nước, còn non
Còn nơi cổ tích ta còn lửa hương.
Đó là toàn bộ cảnh quan di tích lịch sử văn hoá phủ Dầu. Vậy lịch sử
phủ Dầu có tự bao giờ quá trình biến đổi ra sao ? xin bắt đầu từ đôi câu đối
từ chính môn quan:
“Lý triều nhi khởi, Trần triều nhi hưng vạn cổ chiếu giám.
Thiên trụ dĩ duy, địa trụ dĩ lập thiên niên thắng tích”
Phủ Dầu đặt tại trung tâm xã Khánh Hoà - huyện Yên Khánh - tỉnh
Ninh Bình. Cách thành phố Ninh Bình 4 km về hướng Nam theo đường đi
Phát Diệm. Tọa cấn, hướng khôn. Theo sách phong thủy của Tà Ao thì phủ
Dầu lập trên hàm một con rồng. Đằng sau phủ có giếng Mắt Rồng, gồ con
Quy, con Cá chầu về. Đằng trước phủ có ao Hia, ao Võng, ao Lọng chầu lại
trước án minh đường qua khu thần điền có gồ thuyền rồng, gồ chùa Dê. Phía
Tây phủ có gồ Mả Lăng, ao Miễu, gồ Rừng Bồ, gồ Mã Mây, gồ Quần Ngựa.
Linh nha ngọc phả xưa có câu:
“Long sa sinh sịch, hổ thủy sàn sàn
Phương du quý huyệt táng tại Hậu Quan”
Vì phủ Dầu ở cuối xứ Hậu Quan, mà chữ hậu là dầy, chữ quan là kỳ
quan tráng lệ, thực là một linh địa ít nơi nào có được. Nên phủ Dầu còn có
tên là Linh nha tự. Phủ Dầu xưa do hai xã Hương Du và Phương Du phụng
sự. Theo tán chữ thì chữ Hương có nghĩa là thơm, chữ Du là dầu (dầu thơm).
Chữ Phương là phương khí xanh tốt, chữ Du là cây bưởi. Quan nhiệm một
cây bưởi xanh tươi sai hoa trĩu quả đã tạo ra một thứ dầu thơm tho tinh khiết:
(dầu hoa bưởi). Nên cổ nhân chọn chữ phủ Dầu là vậy.
Tương truyền vào khoảng năm Thiên Thành thứ 4 đời Lý Thái Tông
(đầu thế kỷ 11) phủ Dầu có một bệ đá hoa sen đồ sộ nguy nga. ở đó ngoài sự
kỳ diệu của con người buổi sơ khai là điều bí ẩn của tài năng phi thường, còn
có nét văn hoá với trí tưởng tượng và kỹ xảo tuyệt vời của bàn tay vàng ngọc.
Bốn mặt chạm khắc khá tinh xảo, cấu trúc theo lối tứ điểu phụng liên đài.
Hình tượng bốn con đại khổng tước vươn mình gắng sức nâng đỡ đóa sen
vàng. Các tiết họa lưỡng long chầu bổ đề, long vân khánh hội, nhả ngọc phun
châu là nét văn hoá tinh thần, là ước mơ cuộc sống tươi sáng, thanh bình, ấm
no, hạnh phúc.
Ngày xưa nơi đây là rừng rậm chằng chịt cỏ gai bệ đá hoa sen được lập
dưới một rừng muỗm bên trên đặt 3 bát hương sành. Theo nam sử tiền biên
và Thái vi ngọc phả thì năm 1284 giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta
trước đó lợi dụng thời kỳ hòa hoãn (1258 - 1284) một đạo quân toa đô vượt
biển đánh chiếm Chăm Pa rồi đánh thốc vào phía Nam Đại Việt. Trước thế
nguy cấp của đất nước vua Trần Nhân Tông đã kiến bạch đầu quân tại hội
nghị Diên Hồng và xuống chiếu rời đô về Trường Yên phủ. Chọn hành cùng
Thái Vi làm căn cứ kháng chiến. (Nay thuộc các Ninh Xuân, Ninh Vân, Ninh
Thắng, Ninh Hải của huyện Hoa Lư). Lúc đó Hoàng Tử Ngự Câu Vương
được lệnh đem quân chấn giữ miền duyên hải bảo vệ cửa Thần Phù. (Nay là
thôn Phù Sa - xã Yên Lâm - Yên Mô). Ngài đã chọn khu Mả Lăng cạnh phủ
Dầu đóng đại bản doanh. Nơi đây: Thế công có thể kiểm soát cửa Thần Phù,
chi viện cho cửa Đại Nha. Thế thủ có thể lập thành lũy bảo vệ Thái Vi Cung.
Một địa bàn chiến lược: Từ Mã Lăng theo đường bộ qua Ngọc Mỹ Nhân vào
Thái Vi chỉ vài chục dặm. Có đường thủy từ Vũ lâm qua Vũng Trắm, Ba
Vuông, cầu Yên theo sông Vạc xuôi về bến Chủ là tới đại bản doanh. Từ bến
Chủ qua Nhuệ Giang, Trinh Giang, Càn Nhai ra cửa Thần Phù. Quân Trần ở
đây còn có thể phối hợp với đạo quân của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật
đóng ở Trà Tu.
Phục vụ cho đại bản doanh có các bộ phận đóng ở các địa điểm như
khu Rừng Bồ là nơi chứa lương thảo, khu Chùa Đồng là nơi gom góp sắt
đồng để đưa vào đúc rèn khí giới tại khu vườn Giáo. Khu Đầu Voi, gồ Nghiệt
là nơi dưỡng rèn voi trận. Mãi Mã tuyển chọn ngựa chiến từ các nơi đưa về.
Gồ Thuyền Rồng xưởng sửa chữa tầu thuyền. Gồ chùa Dê nơi bài binh bố
trận. Gồ Quần Ngựa nơi luyện tập chiến mã.
Trai tráng khắp vùng được xung vào các đội quân chủ lực. Các vị thân
vương, công nương, đại nương đã về đây kiểm tra và úy lạo binh sỹ. Năm
1286 Huyền Tư công chúa về thăm đại bản doanh thấy bên cạnh có ngôi
chùa cổ kính, cây cối xanh tươi rất hợp với ý tưởng tu hành. Nên công chúa
đã xin phép vua cha xuống phủ Dầu quy y cửa phật đạo. Vua chuẩn tấu cho
đem theo hai ông thái học sinh là Tống Văn Triều và Tạ Như Thủy. Cung phi
Nguyễn Thị Tú, bà nhũ mẫu Phan Thị Vinh và nội các viên Đinh Thái giám.
Từ đó chùa cảnh được mở mang. Bà Huyền Tư cho đắp một con đường
từ chợ Dầu vào phủ theo hình rồng uốn khúc, sửa sang lại khu ao Huê trồng
các loại hồng liên bạch liên dâng tiến.
Dẹp xong giặc Nguyên Mông triều đình trở lại Thăng Long. Hoàng Tử
Ngự Cầu Vương xin vua cha trở về phủ Dầu tu hành cùng chị. Thiên hạ thái
bình, trúc lâm thiền phái từ đời Trần Thái Tông dựng lập ngày thêm hưng
thịnh. Chính sách của nhà Trần là đại diễn trang thái ấp nên hai chị em được
ân ban 173 mẫu lộc điền. Số ruộng đó ông Hoàng bà Chúa đã chuyển thành
tự điền của Linh Nha Tự. Tiếp tục mở rộng trúc lâm thiền phái nhà vua dùng
hai ông thái học sinh vào việc dậy dỗ kệ kinh cho 2 chị em. Cung phi
Nguyễn Thị Tú chịu trách nhiệm giao tiếp với các pháp phái. Ông Đinh thái
giám cận vệ cho ông Hoàng, bà Phan Thị Vinh lo việc cơm chay và phục vụ
bà Chúa.
Qua bao thế hệ thăng trầm: Nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần ; tiếp đến Lê -
Mạc phân tranh, phủ Dầu bị xuống cấp nghiêm trọng. Đến năm Diên Thành
thứ 5 (1582) bẩy vị cựu thần triều Lê cùng con dân 2 xã đứng ra tôn tạo đó
là:
1- Phan Văn Trì - Tước An Thọ Bá
2- Lê Văn Đàm - Tước Trường Thọ Bá
3- Đinh Sỹ Nho - Tưới Phú Khê Bá
4- Phan Như Tùng - Tước Trúc Sơn Bá
5- Lê Viết Phú - Tước An Lộc Bá
6- Phạm Giao - Tước Phú Thọ Bá
7- Đỗ Văn Tài - Tước Liên Thọ Bá
Nên đã có bia “Thất bá trùng tu, nhị hương tôn phụng”. Cũng từ đây
nhân dân hai xã tạc 2 pho tượng ông Hoàng và bà Chúa. Lập đền thờ ông
Đình Thái Giám, dựng lầu bà cô và tôn thờ hai ông thái học sinh. Những
người theo Huyền Tư công chúa về khai sáng đất này.
Năm Vĩnh Tộ thứ 5 đời vua Lê Hiển Tông chùa được xây lại theo kiểu
nội công, ngoại quốc. Phụng sự theo lối tiền Phật hậu Thánh. Sắm long ngại
thánh vị, may áo long cổn, mũ rút đồng thau và khai thần sắc cho chốn thờ tự
linh thiêng. Tiếp đó xây thành chung quanh bằng đá cao 2 mét, bên ngoài có
lũy tre bao bọc, xây một cổng chính. Đến năm Tự Đức thứ 3 đúc một quả
chuông.
Phủ Dầu sau khi ông Hoàng bà Chúa mất thì không có sư ở. Vì ông
Hoàng bà Chúa là cành vàng lá ngọc của triều đình. Nếu không phải là cao
tăng đại đức thì không thể trụ trì được. Nên tự đường kén một ông Tự đức độ
song toàn đèn hương phụng sự. Còn nội điện mỗi xã cử một ông sái chăm lo
hương khói chốn nội cung.
Năm 1936 có sư cụ Đàm Thụ người Ngọc Giả - Nam Ninh - Nam Định
về mở cảnh chùa Gạo xã Ninh Phúc. Sư cụ là người thông tuệ kệ kinh tinh
tưởng phật pháp. Với lòng kính tăng mộ đạo, tín đồ hai xã làm đơn xin thỉnh
cụ về. Sau thời gian trụ trì sư cụ đã cho làm nhà trù, nhà tăng, nhà tổ. Năm
1942 xây hai cổng tam quan 2 bên, chùa cảnh được mở mang ngày thêm
lộng lẫy.
Năm 1945 cách mạng thành công nước nhà được độc lập phủ Dầu
tin được chọn làm địa điểm thành lập Uỷ ban lâm thời xã Khang Du, hợp nhất 3
Đảng bộ của 3 xã Hòa, Phú, An thành xã Khánh Hoà đầu tiên. Năm 1947
chùa Dầu được đón đoàn đại biểu đặc ủy đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hòa do ông Trần Đăng Ninh và ông Nguyễn Khánh Toàn về kiểm tra
phong trào của huyện. Ông Trần Đăng Ninh đã nói: “Phủ Dầu là nơi danh
lam thắng tích rất có giá trị cho nền văn hoá dân Phải cố gắng bảo vệ giữ
gìn”.
Năm 1949 Pháp nhẩy dù xuống Phát Diệm rồi kéo lên đóng bốt chùa
Cao, chùa Hựu, cầu Vệ huyện Yên Khánh, đền Ninh huyện Gia Khánh. Thì
phủ Dầu là nơi tập trung của các lực lượng vũ trang kháng chiến. Là trung
tâm đường dây liên lạc giữa vùng tự do với vùng địch hậu. Đến năm 1951
địch huy động một đại đội vệ sỹ kéo lên đóng bốt tại phủ Dầu. chúng lấy tam
quan làm pháo đài, dùng bệ thờ làm nơi cư trú. Ngăn cản mọi hoạt động lễ
bái. Chi bộ Đảng đã tổ chức nhân dân và các tín đỏ đấu tranh nên tượng phật
và các đồ khí tế được đưa vào đền trung Yên Khang thờ tự. Địch chiếm đóng
phủ Dầu được 4 tháng thì ta giải phóng. Lúc công đồn phần bị trúng đạn,
phần bị địch phá nên phủ Dầu hư hại nặng: 7 gian nội điện, 14 gian giải vũ,
15 gian nhà trù, nhà tăng, nhà tổ 2 cổng tam quan bị phá hủy hoàn toàn. Tiền
đường và một cổng bị hư hại nặng. Trong khi nhân dân và tín đồ còn đang
tập trung cho kháng chiến và luyến tiếc cho sự đổ nát của phủ Dầu thì một
nỗi đau còn nặng hơn lại ập đến. Ngày 28/4 năm Tân Mão (1951) trong một
trận bom oanh tạc của máy bay địch đền Trung bị thiêu rụi. Mất một sắc văn
thời lê, ngọc phả thần tích phủ Dầu, một pho tượng tam thế và nhiều hiện vật
quý giá khác.
Đến cuối năm 1951 toàn dân lại tu sửa tiền đường thiên hương và rước
phật hồi cung. Đến năm 1955 xã lại tổ chức hội lệ tế tự như xưa. Nhưng rồi
chẳng được bao lâu giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, miềm Nam rên xiết
dưới gót dầy xâm lược Mỹ. Với tinh thần tất cả vì mền Nam ruột thịt, tất cả
để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược. Nhà sư cũng tạm cất áo cà sa lên đường
đánh giắc. Mọi hoạt động lễ hội tạm ngừng, chùa cảnh vẫn sớm tới đèn
nhang nhưng xuống cấp nghiêm trọng. Hiện nay ở phủ còn lưu giữ một số di
vật quý như: Mũ rút bằng đồng thau; áo long cổn, về sắc văn riêng sắc của
triều Lê bị cháy năm 1951 trong kháng chiến chống Pháp cùng với thần phả
ngọc phả còn lại các sắc phong văn từ triều Tự Đức đến nay. Cùng một số
văn bia, câu vè câu đối. Kể từ lần trùng tu thứ nhất năm diễn thành thứ 5 đến
nay phủ Dầu đã qua 12 lần trùng tu tôn tạo đó là:
1- Năm Diên Thành thứ 5: (1582)
2- Năm Thiệu Trị thứ 3: (1843)
3- Năm Tự Đức thứ 3: (1850)
4- Năm Tự Đức thứ 33: (1881)
5- Năm Thành Thái thứ 10: (1898)
6- Năm Duy Tân thứ 8: (1914)
7- Năm Khải Định thứ 4: (1919)
8- Nam Bảo Đại thứ 11: (1936)
Và các năm 1951 - 1956 - 1992. Xây lại hai cổng tam quan năm 1999.
Sau chiến thắng vĩ đại xuân 1975 đất nước thống nhất. Chùa Dầu được
Nhà nước tặng thưởng một huy chương kháng chiến chống Pháp hạng nhất.
Một huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất và năm 1993
chùa Dầu được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Thật là:
Kể từ buổi sơ khai xưa cổ
Dấu linh còn rạng rỡ nét son
Một nơi thắng tích kỳ quan
Từ thời bát tiết khói nhang tôn sùng
Trúc lâm phái thiền tông khai sáng
Yên Tử Sơn phổ luyện tâm kinh
Trần gia ái tử tu hành
Ngót ngàn năm lẻ dấu linh vẫn còn
Mở ngọc phả nét son rạng rỡ
Nhìn văn bia nét chữ chưa phai
Thiền môn, thạch tọa liên đài
Bảng vàng di tích rạng ngời nét son
Phải gìn giữ lưu truyền mãi mãi
Cho phủ Dầu ngày một nguy nga
Cho đời dệt gấm thêu hoa
Quê hương đẹp mãi khúc ca thanh bình
(Hết)
Bạn quan tâm mục gì nhất trong Website của chúng tôi?