Chủ nhật, 12/05/2024
CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐẾN VỚI TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ XÃ KHÁNH HÒA

Lịch sử Đảng bộ xã Khánh Hòa

Thứ năm, 20/04/2023 711

LỜI NÓI ĐẦU

Ngày 20/8/1947, Chi bộ Đảng Khang Du - Yên Vệ được thành lập, tiền thân của Đảng bộ xã Khánh Hòa ngày nay. Trải qua 75 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ xã Khánh Hòa đã lãnh đạo nhân dân phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, đoàn kết thống nhất vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thử thách, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tỏ quốc, tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn.

Để ghi lại quá trình lịch sử cách mạng hơn 70 năm qua của Đảng bộ và nhân dân xã Khánh Hòa, năm 2009, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã xuất bản cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ xã Khánh Hòa (1947-2008)” làm tài liệu học tập, tuyên truyền giáo dục, phát huy truyền thống cách mạng trong Đảng bộ và nhân dân địa phương. Cuốn sách ra đời đã được cán bộ, đảng viên, nhân dân trong xã và con em quê hương ở mọi miền Tổ quốc đón nhận.

Thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ xã chủ trương nghiên cứu, biên soạn “Lịch sử Đảng bộ xã Khánh Hòa (1947-2022)”. Cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ xã Khánh Hòa (1947-2022”) được triển khai biên soạn, tái bản lần này trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu và nội dung cơ bản của cuốn lịch sử Đảng bộ xã đã xuất bản, trong đó có thẩm định, chỉnh sửa lại một số nội dung, sự kiện và viết bổ sung giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2022. Những tư liệu bổ sung trong cuốn sách đã được thông qua hội nghị lấy ý kiến đóng góp của các đồng chí đảng viên lão thành, các đồng chí là lãnh đạo chủ chốt của xã qua các thời kỳ, các đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ xã, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Yên Khánh và Phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình.

          Cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ xã Khánh Hòa (1947-2022)” được biên soạn, xuất bản và phát hành giúp cán bộ, đảng viên quân và dân trong xã hiểu rõ những đặc điểm tự nhiên, truyền thống lịch sử, văn hóa, con người Khánh Hòa; quá trình xây dựng tổ chức bộ máy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của đảng bộ xã và phong trào cách mạng qua các thời kỳ. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào, phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong công cuộc đổi mới, nỗ lực thi đua đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ra sức phấn đấu xây dựng quê hương Khánh Hòa ngày càng giàu đẹp. Đồng thời, đây cũng là tư liệu có giá trị phục vụ quá trình nghiên cứu, hoạch định, xây dựng và phát triển Khánh Hòa trong những năm tiếp theo.

Trong quá trình sưu tầm, biên soạn, xuất bản, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Khánh Hòa đã nhận được sự giúp đỡ, đóng góp quý báu của Phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Bình, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Yên Khánh, của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã đặc biệt là các đồng chí nguyên lãnh đạo chủ chốt xã qua các thời kỳ đã cung cấp tài liệu, tư liệu và đóng góp ý kiến bổ sung, hoàn thiện bản thảo cuốn sách. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Khánh Hòa chân thành cảm ơn những đóng góp quý báu đó.

          Mặc dù Ban Chỉ đạo, Ban Biên soạn đã có rất nhiều cố gắng trong quá trình sưu tầm tư liệu và biên soạn cuốn sách, nhưng chắc chắn cuốn sách không tránh khỏi hạn chế, thiếu sót, Ban Chấp hành Đảng bộ xã rất mong tiếp tục nhận được những đóng góp ý kiến của các đồng chí lãnh đạo xã qua các thời kỳ, cán bộ, đảng viên, Nhân dân trong xã và bạn đọc để nội dung cuốn sách hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.

          Nhân dịp kỷ niệm 75 năm thành lập Đảng bộ xã Khánh Hòa (20/8/1947-20/8/2022), Ban Chấp hành Đảng bộ xã Khánh Hòa trân trọng giới thiệu cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ xã Khánh Hòa (1947-2022” tới cán bộ đảng viên, Nhân dân trong xã và bạn đọc.

                      BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ KHÁNH HÒA

CHƯƠNG I

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ, KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ TRUYỀN THỐNG

I. Quá trình hình thành làng, xã

Xã Khánh Hòa ở phía Tây - Bắc huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Phía Bắc giáp xã Khánh Phú, phía Tây giáp xã Ninh Phúc, thành phố Ninh Bình. Phía Đông giáp xã Khánh An. Phía Nam giáp sông Vạc. Khánh Hòa có quốc lộ số 10 chạy qua. Xã Khánh Hòa có 10 xóm với 7.147 nhân khẩu. Diện tích tự nhiên 599,23ha, (trong đó: đất canh tác có 393,53 ha, gồm: đất trồng lúa, trồng màu 279,10 ha; đất chuyên trồng cây màu 83,83 ha; đất trồng cây lâu năm 10,8 ha; đất nuôi thuỷ sản 15,66 ha, còn lại là thổ canh và vườn tạp. Khánh Hòa là xã thuần nông, cây trồng chủ yếu là lúa, lạc, đậu tương, ngô. Chăn nuôi chủ yếu là gia súc, gia cầm. Một số hộ gia đình chăn nuôi những con có giá trị kinh tế cao như rắn, ba ba, bò lai sin khá sớm. Cùng với nghề nông trồng lúa nước, người dân Khánh Hòa có nghề truyền thống lâu đời: nghề mây tre đan.

Khánh Hòa có đường giao thông khá thuận tiện. Quốc lộ 10 chạy từ thành phố Ninh Bình đi thị trấn Phát Diệm (huyện Kim Sơn) cắt ngang địa bàn xã. Đây là tuyến đường huyết mạch thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa, giao lưu với các địa phương trong và ngoài xã.

Từ thời Trần trở về trước xã Khánh Hòa (hiện nay) gồm 2 xã Hương Du và Phương Du thuộc huyện Yên Ninh, Phủ Trường Yên. Năm Kiến Phúc (1884) đời vua Nguyễn Giản Tông, xã Hương Du đổi thành xã Yên Khang.

Trước năm 1945 xã Phương Du và Yên Khang thuộc Tổng Yên Vệ, huyện Yên Khánh. Xã Phương Du có 4 thôn: thôn Đông, thôn Xuân, thôn Thượng, thôn Rậm (thôn Rậm ở riêng biệt một khu), thôn Đông có 2 xóm nhỏ, thường gọi là xóm lẻ (giáp làng Bôi xã Ninh Phúc) và xóm Chợ Dầu. Xã Yên Khang có 3 thôn gồm thôn Nội, thôn Ngoại, thôn Thuần Đầu (thôn Thuần Đầu ở riêng biệt một khu). Khi đào sông Vạc đã tách thôn Thuần Đầu thành 2 khu. Khu xóm Trại Bầu ở bên kia sông Vạc thường gọi là Bầu Khoai, sau này huyện điều chỉnh địa giới nhập xóm Trại Bầu vào xã Khánh Thượng.

Năm 1946, huyện Yên Khánh hợp nhất 50 xã, làng, trang trại thành lập 20 xã. Xã Phương Du, Yên Khang thành xã Khang Du. Tháng 7 năm 1949, huyện Yên Khánh hợp nhất 20 xã thành lập 7 xã. Các xã Yên Vệ, Khang Du, Tân An hợp thành xã Khánh Hòa. Như vậy địa danh Khánh Hòa có từ tháng 7 năm 1949.

          Năm 1956, huyện Yên Khánh điều chỉnh lại địa giới các xã. Xã Khánh Hòa còn 2 thôn Phương Du và Yên Khang; Yên Vệ, Hào Phú thành xã Khánh Phú; Tân An gồm Yên Xuyên, Yên Bắc, Yên Phú, Yên Cống, Văn Giáp thành xã Khánh An ngày nay.

          Ngày 27/12/1975, hai tỉnh Ninh Bình và Nam Hà (nay là Hà Nam và Nam Định) hợp nhất thành tỉnh Hà Nam Ninh. Khánh Hòa thuộc huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ngày 27/4/1977, 10 xã phía Bắc của huyện Yên Khánh hợp nhất với huyện Yên Mô thành lập huyện Tam Điệp. Xã Khánh Hòa thuộc huyện Tam Điệp, tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1994, huyện Yên Khánh được tái lập gồm 19 xã, trong đó có xã Khánh Hòa.

          Hiện nay, với vị trí xung yếu, là xã nằm ở phía Bắc của huyện Yên Khánh và có đường giao thông thuận tiện trong việc di chuyển xuống phía Nam đi huyện Kim Sơn, có đường cao tốc Bắc - Nam chạy qua, Khánh Hòa có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để quê hương Khánh Hòa phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

          II. Vài nét về truyền thống văn hóa, lịch sử

          Nhân dân Khánh Hòa có truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động, có tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương. Truyền thống đó được các thế hệ con cháu phát huy trong suốt chặng đường lịch sử, lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần cùng dân tộc đánh bại mọi đội quân xâm lược, bảo vệ quê hương, đất nước.

          Khánh Hòa vùng đất có nét văn hoá truyền thống độc đáo, phát triển khá sớm, phong phú, đa dạng, nhiều công trình văn hoá mang đậm sắc thái riêng. Xã Khánh Hòa có 2 ngôi chùa, chùa Dầu - Linh Nha Tự và chùa Dê, 2 ngôi đình, 7 ngôi đền và một số điếm thờ thần, thổ địa. Một bộ phận nhân dân theo đạo Phật còn lại đại đa số theo tín ngưỡng dân gian thờ cúng tổ tiên, ông bà.

Chùa Dầu được xây dựng từ thời Lý, toạ lạc trên khu đất của xóm Chùa ở trung tâm xã. Chùa thờ Hoàng Tử Ngự Câu Vương và chị gái là Công chúa Huyền Tư (Hoàng Tử Ngự Câu Vương và Công chúa Huyền Tư đã tu hành ở chùa này).

Lý  Triều nhi khởi, Trần Triều nhi hưng vạn cổ danh lam

Cửa giữa Tam quan Chùa Dầu có câu đối:

Thiên trụ dễ duy, địa trục dĩ lập, thiên niên thắng tích.

(Thời Lý dựng lên, thời Trần hưng thịnh muôn thủa chùa này.

 Cột trời đã vững, trụ đá đã bền, ngàn thu cảnh ấy).

Hội Đồng Nỉ 60 năm mới mở 1 kỳ. Các giao ước, lệ tự có 9 xã tham gia. Nhiều gia đình nêu cao đạo nghĩa giữ gìn nếp sống gia phong được dân làng quý trọng, tạo nên nét đẹp truyền thống của Phương Du và Yên Khang.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược lần thứ hai (năm 1285), vua Trần lui quân về Ninh Bình xây dựng căn cứ kháng chiến đã lệnh cho Hoàng tử Ngự Câu Vương đem quân đến miền duyên hải phía đông nam Ninh Bình lập căn cứ chấn giữ bảo vệ Hành cung Vũ Lâm - hậu cứ chỉ đạo cuộc kháng chiến. Trên đường thị sát địa hình lập căn cứ khi đến 2 xã Phương Du và Hương Du thuộc tổng Yên Vệ, thấy địa thế khu Mả Lăng thuận lợi cho việc bố trí lực lượng xây dựng hệ thống phòng ngự, Hoàng tử Ngự Câu Vương chọn nơi đây làm đại bản doanh. Tại đây Hoàng tử chiêu tập hiền tài, tuyển quân xây dựng đồn luỹ, tích trữ lương thảo, luyện tập quân sỹ phòng thủ bảo vệ phía đông nam Hành cung Vũ Lâm. Hưởng ứng tinh thần “Sát thát” của vua tôi nhà Trần, nhân dân Hương Du, Phương Du tích cực ủng hộ đội quân do Hoàng tử Ngự Câu Vương chỉ huy, góp phần đánh thắng quân Mông - Nguyên do Toa Đô chỉ huy (ngày 7/6/1285) tại phủ Tràng An.

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Với bản chất yếu hèn bạc nhược, nhà Nguyễn để đất nước ta từng bước rơi vào tay giặc. Năm 1873, quân Pháp đánh chiếm Ninh Bình lần thứ nhất, năm 1883, chúng đánh chiếm Ninh Bình lần thứ hai. Sau khi chiếm được Ninh Bình, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị, tiến hành áp bức bóc lột nhân dân ta để phục vụ cho cuộc chiến tranh.

Nằm trong thiết chế chung của cả nước, người dân Phương Du, Yên Khang chịu cảnh một cổ hai tròng áp bức. Bọn cường hào trong xã, trong làng thâu tóm quyền hành, kết bè, đảng ức hiếp dân lành. Chính sách cai trị hà khắc của thực dân Pháp: chuyên chế về chính trị, độc quyền về kinh tế, nô dịch về văn hoá làm cho nhân dân vô cùng cực khổ lầm than. Xã hội phân tầng, hủ tục lạc hậu trói buộc con người đến cùng cực, điển hình là tệ trọng nam khinh nữ. Địa chủ cường hào chỉ có gần 5% số dân nhưng chiếm hơn 95% diện tích ruộng đất tư điền toàn xã. Nông dân không ruộng cày cấy, phải làm thuê cuốc mướn cho địa chủ vẫn không đủ cơm ăn áo mặc, phải chịu nhiều thứ thuế bất công. Điển hình là thuế thân, một suất đinh (bổ theo nam giới từ 18-60 tuổi) là 2,5 đồng tương đương 170-200 kg thóc, thuế điền, thuế môn bài phụ thu, lạm bổ. Nhiều người phải bán vợ đợ con, làm con ở truyền đời vẫn không trả hết nợ, một số bỏ làng tha hương cầu thực đất khách quê người. Những năm 1939-1940 giá thóc ngoài chợ 1 hào 1 thùng (tương đương 10 kg).

Trước năm 1945 sự áp bức bóc lột của đế quốc và phong kiến tay sai làm cho nhân dân Phương Du, Yên Khang uất hận căm thù, âm ỉ ngọn lửa đấu tranh chờ thời cơ vùng lên tiêu diệt quân thù.

          Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Khánh Hòa là khu du kích nổi danh phá tề, diệt ác, chiến đấu oanh liệt, giữ đất, giữ làng. Nhiều chiến sỹ du kích dũng cảm chiến đấu tiêu diệt địch góp phần giành độc lập dân tộc.

          Giai đoạn những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Khánh Hòa hăng hái tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần cùng cả nước đánh thắng đế quốc Mỹ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Đời sống văn hóa trong vùng thấp kém. Trước cách mạng Tháng 8 năm 1945, cả xã chỉ có 1 trường Tiểu học từ Đồng ấu dự bị đến sơ đẳng (tương đương lớp 1 đến lớp 3 hiện nay); những gia đình khá giả muốn cho con ăn học tiếp lên lớp 4 phải xuống trường huyện ở xã Yên Ninh, đa số người dân không được đi học, số ít con nhà giàu mới được đến trường. Vì vậy, 95% số dân Phương Du, Yên Khang mù chữ.

Người dân không chỉ đói cơm, rách áo mà còn ốm đau không nơi chữa bệnh. Cả huyện Yên Khánh chỉ có 2 trạm phát thuốc ở Nhuận Ốc, Phúc Nhạc và 6 nhà hộ sinh. Người ốm đau trông chờ thầy lang chữa các bệnh thông thường, 2 xã chỉ có một vài bà đỡ tại nhà. Bệnh dịch, ốm đau xảy ra thường xuyên, tệ cúng lễ, mê tín dị đoan diễn ra phổ biến.

Với chế độ hà khắc của thực dân, phong kiến, nhân dân đói khổ, bệnh tật hoành hành không có tiền chạy chữa, mê tín dị đoan phát triển. Bọn thực dân phong kiến khuyến khích nạn cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện, cô đầu, con hát, bàn đèn mở công khai ở xóm làng. Nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 trong xã có hàng trăm gia đình có người bị chết đói, nhiều gia đình tha hương cầu thực ra đi không ngày về. Hai xã Phương Du, Yên Khang có tới 562 người bị chết đói.

Chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp và phong kiến tay sai làm cho nhân dân vô cùng căm phẫn, mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn thống trị ngày càng sâu sắc, tinh thần đấu tranh vẫn âm ỉ trong nhân dân chỉ chờ thời cơ vùng lên lên lật đổ ách cai trị giành quyền độc lập tự do.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc xâm lược giành thắng lợi, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vùng đất, con người Khánh Hòa không ngừng đổi thay. Từ năm 1986, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, cùng với cả nước, nhân dân Khánh Hòa nhiệt tình hưởng ứng công cuộc đổi mới đạt kết quả quan trọng. Thôn xóm bình yên, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, trình độ dân trí được nâng cao, kết cấu hạ tầng nông thôn được xây dựng nâng cấp, các công trình phúc lợi xã hội trường học, trạm xá, điện, nước giao thông nông thôn, hệ thống thông tin… ngày càng hoàn thiện, phát triển. Nhiều lĩnh vực được xây dựng khá sớm so với các xã trong huyện.

CHƯƠNG II

KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN, THÀNH LẬP CHI BỘ ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN KHÁNG CHIẾN CHỐNG

 THỰC  DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)

I. Khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945.

Nhân dân Phương Du, Yên Khang có truyền thống đấu tranh cách mạng, giàu lòng yêu nước, do ảnh hưởng của phong trào cách mạng nhiều nơi trong tỉnh, trong huyện, nhân dân đã vùng dậy đấu tranh chống sưu cao thuế nặng, chống áp bức bóc lột. Nhân dân trong vùng sục sôi căm hờn, vùng dậy chống thu thuế của địa chủ, cường hào, nhất là cuộc đấu tranh của nhân dân Phương Du chống Chánh tổng Phạm Ới. Cuộc đấu tranh kéo dài nhiều ngày với nhiều hình thức phong phú, cuốn hút các tầng lớp nhân dân tham gia. Đi đầu phong trào đấu tranh là các ông Phạm Thư Hương, ông Hữu người Phương Du hăng hái hoạt động tổ chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh.

Năm 1943, cơ sở cách mạng được xây dựng ở nhiều nơi trong huyện, các đoàn thể cách mạng ra đời: Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu vong… ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào cách mạng ở Phương Du và Yên Khang.

Từ tháng 12 năm 1944, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ ở khắp nơi, cách mạng Yên Khánh bước sang giai đoạn mới. Từ đây các cuộc đấu tranh của nhân dân trong vùng ngày càng phát triển. Các cuộc đấu tranh được tổ chức chặt chẽ hơn diễn ra với quy mô lớn, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ “Phát động phong trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa” và “bám lấy nạn đói mà cổ động phong trào đấu tranh”. Khẩu hiệu hành động lúc này là “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Giải quyết nạn đói lúc này không những là yêu cầu cấp thiết của quần chúng mà còn là yêu cầu sống còn của dân tộc, của cách mạng. Chủ trương phá kho thóc cứu đói phù hợp với lòng mong mỏi của nhân dân, nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Do ảnh hưởng phong trào đấu tranh phá kho thóc của nhân dân các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Gia Khánh. Nhân dân Phương Du, Yên Khang vùng dậy phá kho thóc giải quyết nạn đói. Từ phong trào đấu tranh, các tổ chức đoàn thể quần chúng được thành lập và tổ chức chặt chẽ.

Tháng 4 năm 1945, phong trào kháng Nhật cứu nước của nhân dân Phương Du, Yên Khang diễn ra mạnh mẽ, hòa cùng khí thế sôi động của nhân dân Yên Khánh. Các chính sách của Mặt trận Việt Minh thấm sâu vào trái tim, khối óc của mỗi người dân; nhân dân truyền cho nhau nghe những bài ca dao, bài vè về tinh thần yêu nước thương nòi; các đoàn thể cứu quốc đẩy mạnh tuyên truyền cho nhân dân ở các thôn xóm về sự phát triển của phong trào cách mạng trong cả nước, sức mạnh và quy mô đấu tranh của giai cấp công nhân để động viên các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh đánh đổ bọn thống trị.

Tháng 5 năm 1945 đồng chí Trần Quý Kiên được xứ uỷ Bắc Kỳ cử về phụ trách phong trào cách mạng Ninh Bình, đồng chí đã thị sát tình hình phong trào cách mạng ở Yên Khánh. Sau chuyến thị sát của đồng chí Trần Quý Kiên, phong trào cách mạng ở Yên Khánh có bước phát triển mạnh mẽ và chuyển sang giai đoạn mới, công tác chuẩn bị các điều kiện đấu tranh giành chính quyền diễn ra khẩn trương, các cuộc đấu tranh của nhân dân có lực lượng Thanh niên tự vệ làm nòng cốt. Tài liệu tuyên truyền chuyển về Phương Du, Yên Khang ngày một nhiều, các thành viên trong các đoàn thể cứu quốc xuống tận thôn xóm để tuyền truyền vận động nhân dân: “Kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội” khi thời cơ cách mạng đã đến.

Từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp quyết định phát động toàn dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 16/8/1945, Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào tán thành hoàn toàn chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, nhất trí thông qua 10 chính sách của Việt Minh. Đại hội quốc dân vừa bế mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến, toàn quốc, đồng bào hãy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta...”. Rạng sáng ngày 19/8/1945, nhận được chủ trương khởi nghĩa từ cơ sở cách mạng Yên Ninh, lực lượng cách mạng Phương Du, Yên Khang sẵn sàng chờ lệnh vùng dậy đấu tranh đánh đổ cường hào ác bá. Chiều ngày 20/8/1945, lực lượng cách mạng Yên Khánh chớp thời cơ vùng dậy đấu tranh giành chính quyền ở phủ, huyện thành công. Được tin chính quyền ở huyện về tay nhân dân, Mặt trận Việt Minh lãnh đạo quân dân Phương Du, Yên Khang vùng dậy đấu tranh chống bọn hương lý, kỳ hào. Ngày 21/8/1945, đồng chí Nguyễn Văn Thụ cán bộ Việt Minh huyện cùng lực lượng Việt Minh cơ sở tập hợp quần chúng tuyên truyền về Việt Minh, về chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền, quân dân Phương Du, Yên Khang chủ yếu là lực lượng thanh niên yêu nước tay cầm cờ đỏ, sao vàng hô vang khẩu hiệu “ủng hộ Việt Minh”. Khí thế vùng lên của quần chúng nhân dân trong vùng hoàn toàn áp đảo bọn kỳ hào ác bá, chính quyền tay sai trong xã sợ hãi, hoang mang, trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng, bọn tay sai phải cúi đầu nhận tội.

Ngày 22/8/1945, chính quyền bù nhìn tay sai Phương Du bị lật đổ, lý trưởng Phạm Văn Nhạ nộp đồng triện và toàn bộ sổ sách cho lực lượng Việt Minh. Ngày 24/8/1945, Uỷ ban cách mạng lâm thời Phương Du được thành lập gồm 5 thành viên, ông Phạm Thư Hương làm Chủ tịch lâm thời. Cùng với Phương Du, lý trưởng xã Yên Khang P.V.T cũng nộp tài liệu, sổ sách cho Việt Minh. Ngày 24/8/1945, chính quyền cách mạng Yên Khang được thành lập gồm 5 thành viên, ông Phan Văn Thúy làm Chủ tịch Ủy ban cách mạng lâm thời.

Ngày 25/8/1945, nhân dân 2 xã Phương Du, Yên Khang cử đại diện giương cao cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ từ các ngả đường tập trung thành đoàn về thị xã Ninh Bình chào mừng Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh ra mắt nhân dân.

Ngày 2/9/1945, nhân dân Phương Du, Yên Khang hướng về Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính quyền lâm thời trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào trong nước và thế giới khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn độc lập khẳng định “một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập”. Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập...

Cách mạng Tháng Tám thành công là kết quả sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, là sức mạnh của lòng yêu nước khát khao cuộc sống độc lập tự do của nhân dân ta. Từ đây, nhân dân Phương Du, Yên Khang làm chủ trên mảnh đất của mình, làm chủ nước nhà, hết cảnh nô lệ lầm than, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

II. Đấu tranh xây dựng củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng (1945-1947)

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, giặc ngoài thù trong từng ngày, từng giờ chống phá hòng xóa bỏ thành quả cách mạng của nhân dân ta. Bên cạnh đó, hậu quả 80 năm cai trị của thực dân Pháp để lại rất nặng nề, kinh tế, xã hội khó khăn. Chính sách nô dịch văn hóa của thực dân Pháp làm cho hơn 90% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội diễn ra phổ biến, tình thế đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”.

 Trong hoàn cảnh chính quyền mới được thành lập, cán bộ chưa có kinh nghiệm quản lý xã hội, bọn phản động bắt tay móc nối với nhau lợi dụng tình hình xã hội phức tạp tìm cách phá hoại cách mạng.

Nạn lụt lớn tháng 8 năm 1945 làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ, đoạn đê Yên Vệ cũng bị vỡ ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất, đời sống nhân dân. Nạn lụt lớn làm hơn 60% diện tích ruộng bị ngập úng, sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn, nạn đói lại đe doạ đời sống nhân dân.

 Thực hiện Chỉ thị “kháng chiến kiến quốc” của Đảng, được sự lãnh đạo của Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện, Huyện bộ Việt Minh tích cực tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân ủng hộ chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng. Trước hết tập trung xây dựng củng cố vững chắc các đoàn thể cách mạng Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Nhi đồng cứu vong... làm lực lượng nòng cốt đấu tranh bảo vệ chính quyền; kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu thủ đoạn chia rẽ khối đoàn kết nhân dân, kích động những người nhẹ dạ, cả tin theo chúng chống lại chính quyền cách mạng.

Ngày 6/1/1946, lần đầu tiên trong lịch sử cử tri 2 xã Phương Du, Yên Khang từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ, tôn giáo nô nức đi bầu cử, hơn  90% cử tri đi bỏ phiếu. Kết quả, cuộc bầu cử thành công, an toàn, Khu vực Yên Khánh đắc cử 3 đại biểu gồm các ông Trương Văn Công, Phan Văn Vợi, Phạm Văn Hồng (tức Đống).

Theo chủ trương của Huyện uỷ, Uỷ ban hành chính huyện, tháng 3 năm 1946 huyện Yên Khánh sáp nhập 50 xã cũ thành lập 20 xã mới. 2 xã Phương Du, Yên Khang sáp nhập thành xã Khang Du.

Tháng 4 năm 1946, nhân dân Khang Du phấn khởi đi bầu cử Hội đồng nhân dân xã mới tại 2 ngôi đình của 2 thôn Phương Du, Yên Khang. Kết quả có 21 đại biểu đắc cử.

Tháng 5 năm 1946, Hội đồng nhân dân bầu Uỷ ban nhân dân xã gồm 7 thành viên, ông Phan Văn Thúy làm Chủ tịch, ông Vũ Văn Tranh làm Phó Chủ tịch.

Cùng với nhiệm vụ xây dựng củng cố chính quyền, Ủy ban nhân dân cùng xã bộ Việt Minh tích cực vận động nhân dân tham gia phong trào “diệt giặc đói, giặc dốt”, từng bước khắc phục khó khăn đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất nhân dân tạo ra sự ổn định xã hội, Uỷ ban cách mạng lâm thời lãnh đạo các tổ chức đoàn thể cứu quốc, xuống cơ sở tuyên truyền vận động nhân dân hăng hái tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Biện pháp khắc phục khó khăn lúc này là thực hành tiết kiệm theo gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Mỗi nhà cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn ba bữa, đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”; tổ chức “Ngày đồng tâm” quyên góp thêm gạo để cứu đói cho những gia đình gặp nhiều khó khăn. Đồng thời với việc tiết kiệm gạo giải quyết nạn đói trước mắt, nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, thực hiện khẩu hiệu “Tấc đất, tấc vàng”, “Tăng gia sản xuất ngay!Tăng gia sản xuất nữa!”. Phong trào tăng gia sản xuất được dấy lên hơn bao giờ hết, các thôn xóm, đường làng, ngõ hẻm không một miếng đất bỏ hoang, nạn đói dần dần được đẩy lùi, nhân dân Phương Du, Yên Khang phấn khởi trước thành quả do cách mạng đem lại. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức “Tuần lễ vàng” xây dựng “Quỹ độc lập”  ủng hộ nền tài chính nước nhà, nhiều gia đình trong xã đóng góp ủng hộ Nhà nước tiền bạc, những vật dùng bằng kim loại quý như: mâm đồng, chậu đồng, nồi đồng cùng những đồ trang sức vật kỷ niệm: khuyên vàng, hoa tai vàng, vàng bạc.

Cùng với việc chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, chính quyền quan tâm xây dựng đời sống mới, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan, thực hiện nếp sống mới trong thôn xóm. Ngày 8/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ và Người phát động phong trào xoá nạn mù chữ. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị ngày 28/9/1945 của Uỷ ban nhân dân cách mạng Yên Khánh về xoá nạn mù chữ, Uỷ ban nhân dân cách mạng và xã bộ Việt Minh Phương Du, Yên Khang vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia học chữ. Với tinh thần “Đi học là yêu nước” nhân dân Phương Du, Yên Khang nô nức đến lớp học, lớp ít thì 5 người, lớp nhiều từ 10 đến 15 người, người biết ít dạy người chưa biết. Uỷ ban nhân dân lấy đoàn Thanh niên cứu quốc làm nòng cốt trong phong trào học tập, mỗi đoàn viên kèm cặp một số người. Phong trào bình dân học vụ ở Phương Du, Yên Khang sôi nổi, người người học tập, nhà nhà học tập, tối xóm nào cũng quây quần từng nhóm học tập, ông bà học cùng con cái, cháu chắt. Phong trào “diệt giặc dốt” ở Phương Du, Yên Khang hòa trong phong trào của toàn huyện, các lớp bình dân học vụ được mở khắp nơi, hàng trăm người dân được xóa nạn mù chữ.

Sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng chế độ mới. Tuy nhiên, thực dân Pháp không chịu từ bỏ dã tâm đánh chiếm nước ta một lần nữa. Ngày 23/9/1945, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Để giữ vững nền độc lập dân tộc, quân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến. Đồng thời với cuộc tấn công của quân Pháp ở miền Nam, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch tràn vào nước ta đe dọa nền độc lập dân tộc. Trong hoàn cảnh kẻ thù đông và mạnh, Đảng đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để cô lập kẻ thù, tiến hành hòa hoãn với Pháp, Tưởng nhằm kéo dài thời gian cho nhân dân ta có điều kiện chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến sẽ nổ ra.

Với quyết tâm xâm lược Việt Nam lần thứ hai, thực dân Pháp từng bước bội ước Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9 liên tục gây hấn ở một số nơi như Hải Phòng, Lạng Sơn, trắng trợn hơn ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, giao quyền kiểm soát thủ đô cho quân đội chúng và dọa nếu ta không đáp ứng đòi hỏi đó thì ngày 20/12/1946 quân đội của chúng sẽ hành động. 

Trước tình hình trên, trong hai ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại thị xã Hà Đông quyết định phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đêm ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”: “... Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Khang Du đoàn kết quyết tâm đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập của quê hương, đất nước. Uỷ ban nhân dân cách mạng xã mở đợt học tập, tuyên truyền nhân dân về lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm tố cáo những hành động ngang ngược của quân Pháp, nêu cao tinh thần căm thù giặc, khơi dậy tinh thần yêu nước, quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước.

Hưởng ứng lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở Phương Du, Yên Khang có hàng chục thanh niên hăng hái tham gia vào lực lượng vũ trang. Nhiều thanh niên hăng hái lên đường, như đồng chí Phạm Văn Đãn (xóm Đông), Phạm Văn Nhã (xóm Thượng) nhập đội quân Nam Tiến; đồng chí Vũ Văn Để, Vũ Văn Ngự (xóm Rậm), Vũ Văn Điền (xóm Xuân), Phạm Văn Quý (xóm Thuần Đầu) vào vệ quốc đoàn; đồng chí Vũ Văn Tào (xóm Đông) tham gia bộ đội địa phương, chiến tranh mỗi ngày một lan rộng, nhân dân nhiều nơi phải sơ tán.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện uỷ, Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện về giúp đỡ đồng bào tản cư. Đầu năm 1947, nhân dân Khang Du thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Ta phải tự cấp, tự túc để có thể trường kỳ kháng chiến được… phải giúp đỡ đồng bào có công ăn việc làm vì ta phải trường kỳ kháng chiến và giúp đồng bào tản cư”.

Nhân dân Khang Du tiếp nhận một số đồng bào ở Nam Định, Hưng Yên về tản cư. Chính quyền vận động nhân dân trong xã giúp đỡ nơi ăn, chốn nghỉ, cày bừa, thóc giống, ruộng đất…. để đồng bào về tản cư sản xuất, đùm bọc lẫn nhau, theo tinh thần “lá lành đùm lá rách”, cùng chia sẻ khó khăn, ủng hộ Đảng, Chính phủ lãnh đạo toàn dân kháng chiến.

Nhằm phát huy hiệu lực của các cấp chính quyền trong việc tổ chức, điều hành kháng chiến ở địa phương, tháng 3 năm 1947, đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do ông Nguyễn Khánh Toàn đặc uỷ đoàn Chính phủ cùng ông Trần Đăng Ninh về làm việc tại xã Khang Du. Tại đây đoàn phát hiện Ủy ban hành chính xã có nhiều việc làm sai trái vi phạm pháp luật. Do đặc điểm tình hình cách mạng mới thành công, bọn địch và phản động địa phương ra sức phá hoại, cài cắm len lỏi vào chính quyền cách mạng, mặt khác ta tranh thủ lực lượng xây dựng khối đoàn kết toàn dân do đó thành phần trong chính quyền nhân dân sử dụng một số đối tượng trung gian, những người là kỳ hào, hương lý nắm giữ những chức vụ trọng yếu then chốt trong bộ máy chính quyền. Sau thời gian ngắn lực lượng này bộc lộ bản chất chống phá cách mạng, hiệu lực chính quyền trở nên yếu kém, hoạt động của họ gây khó khăn, cản trở thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc.

Đoàn công tác Chính phủ bãi miễn Uỷ ban hành chính xã Khang Du, xử lý nghiêm minh những người vi phạm pháp luật, giao cho Uỷ ban hành chính huyện Yên Khánh tổ chức bầu lại Ủy ban hành chính xã, thu hồi số tài sản bị thất thoát.

Tháng 6 năm 1947, Hội đồng nhân dân xã Khang Du tiến hành bầu Ủy ban hành chính xã theo chỉ đạo của Ủy ban hành chính huyện. 7 uỷ viên đắc cử vào Uỷ ban hành chính xã Khang Du. Ông Trịnh Văn Khải được bầu làm Chủ tịch, ông Phan Văn Khới làm Phó Chủ tịch.

 Sau khi loại bỏ được những phần tử xấu trong bộ máy chính quyền xã, chính quyền mới được thành lập tạo niềm tin phấn khởi trong cán bộ và nhân dân. Uỷ ban hành chính xã phối hợp chặt chẽ cùng lực lượng Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc xây dựng lực lượng củng cố chính quyền, xã bộ Việt Minh tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, động viên giáo dục tinh thần yêu nước, yêu cách mạng đề cao cảnh giác hăng hái tham gia đoàn thể cách mạng, tích cực ủng hộ chính quyền cách mạng. Nhân dân trong xã phấn khởi hưởng ứng thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, nhân dân trong xã phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần đồng cam cộng khổ đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau. Uỷ ban hành chính thực hiện chế độ cấp công điền. Mỗi công dân nam và nữ từ 18 tuổi trở lên đều được cấp ruộng để tăng gia sản xuất. Cùng với cấp ruộng đất, chính quyền đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân bài trừ tệ nạn xã hội, xoá bỏ mọi hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan thực hiện nếp sống mới, chỉ trong thời gian ngắn các hoạt động lên đồng, chiêu hồn, bói toán…..được xoá bỏ. Đám cưới, đám hiếu được thực hiện theo nếp sống mới, công tác vệ sinh phòng bệnh, ăn chín, uống sôi được cán bộ y tế chăm lo, nhân dân hưởng ứng.

Thời gian này, chính quyền cùng xã bộ Việt Minh đẩy mạnh công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ thường xuyên tập luyện, ngày đêm canh gác, cảnh giác người lạ mặt vào làng. Lực lượng dân quân tự vệ vừa sản xuất vừa thực hiện bảo đảm giữ gìn an ninh thôn xóm, đẩy mạnh sản xuất thực hành tiết kiệm, mua sắm vũ khí, luyện tập sẵn sàng chiến đấu.

III. Thành lập chi bộ Đảng Khang Du, lãnh đạo đấu tranh bảo vệ xây dựng chính quyền cách mạng. Xây dựng lực lượng chống địch đánh phá, thăm dò (12/1947 - 9/1949)

Phong trào cách mạng ngày một phát triển, lan toả trong nhân dân, tính chất đấu tranh ngày càng sâu sắc đòi hỏi phải có sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức đảng lãnh đạo đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.

Sau khi Huyện uỷ được thành lập (giữa năm 1946) đã chú trọng đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác phát triển đảng viên. Đồng chí Nguyễn Văn Thụ được huyện uỷ cử về bám sát địa bàn xã Khang Du tuyên truyền giác ngộ cách mạng quần chúng, giúp đỡ quần chúng phấn đấu để kết nạp vào hàng ngũ của Đảng. Kết quả, tháng 6 năm 1947, thôn Phương Du kết nạp được 3 đảng viên gồm các đồng chí Phạm Văn Giác, Phạm Văn Dũng và Phạm Văn Bôi.

Ngày 20/8/1947, đồng chí Phạm Văn Muôn, ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, được Huyện ủy ủy nhiệm triệu tập đảng viên ở hai xã Yên Vệ và Khang Du họp tại nhà đồng chí Vũ Thiện Cầu thành lập chi bộ đảng Yên Vệ - Khang Du. Đồng chí Vũ Thiện Cầu được cử làm Bí thư chi bộ, (chi bộ ghép của 2 xã Yên Vệ và Khang Du). Đồng chí Phạm Văn Giác được chi bộ giao nhiệm vụ tiếp tục làm công tác xây dựng Đảng ở Khang Du.

Ngày 22/9/1947, các đồng chí Phạm Văn Muôn, Nguyễn Văn Thụ, Vũ Thiện Cầu (Yên Vệ) được Huyện ủy cử về xã công bố kết nạp đảng viên mới, công bố các đảng viên chính  thức, số đảng viên trong chi bộ đã có 7 đồng chí Đến đây đã có đủ điều kiện thành lập chi bộ, đồng chí Phạm Văn Giác được giao làm tổ trưởng tổ Đảng.

Ngày 20/12/1947, Hội nghị thành lập chi bộ Khang Du được tổ chức tại Từ đường Họ Bùi, xóm Thượng 2 (Khánh Hòa), tổng số có 13 đảng viên tham dự (7 đảng viên chính thức, 6 đảng viên dự bị). Đồng chí Phạm Văn Dũng được chỉ định làm Bí thư, đồng chí Phạm Văn Giác làm Phó bí thư, đồng chí Phạm Văn Bôi làm chủ nhiệm Việt Minh. Chi bộ Đảng Khang Du ra đời là mốc son đánh dấu sự phát triển trong phong trào cách mạng xã Khang Du, từ đây mọi hoạt động của quân dân Khang Du đều đặt dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng. Đây là nhân tố đảm bảo sự thắng lợi của phong trào cách mạng.

Chi bộ Đảng ra đời đã thực hiện ngay vai trò lãnh đạo, phân công đảng viên theo dõi nắm tình hình từng khu vực; tổ chức đợt tuyên truyền nhân dân nhận thức rõ hơn về âm mưu, tội ác của thực dân Pháp, chỉ rõ hành động xảo quyệt của bọn phản động tay sai; lãnh đạo củng cố lực lượng, động viên nhân dân  tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm; xúc tiến xây dựng lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu chống bọn phản động và thực dân Pháp xâm lược.

Giữa năm 1948 để ổn định đời sống nhân dân, khắc phục nạn đói, quân dân Khang Du hăng hái tham gia đào đắp đê sông Đáy. Các đoàn thể tham gia vận động nhân dân, lấy lực lượng thanh niên làm nòng cốt tham gia đắp đê. Mỗi ngày hàng trăm người có mặt trên công trường. Nhân dân trong xã cùng nhân dân trong huyện hăng hái lao động, hoàn thành khối lượng công việc trong thời gian ngắn, góp phần cùng toàn huyện đào đắp, bồi trúc 36,9 km đê, xây đắp 23 đập lớn nhỏ. Nhờ các công trình này Khang Du và nhiều xã trong huyện giải quyết được nước phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, song nhân dân vừa tăng gia sản xuất  khắc phục đời sống khó khăn, vừa đóng góp làm tròn nghĩa vụ với Chính phủ. Trong đợt giao nộp thuế giữa năm 1948, nhân dân Khang Du hoàn thành nghĩa vụ, giao nộp đủ đúng thời hạn số thuế đóng góp.

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, cùng với đẩy mạnh tăng gia sản xuất, làm thuỷ lợi; chi bộ lãnh đạo chăm lo củng cố lực lượng vũ trang địa phương, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ. Tháng 10 năm 1948, xã Khang Du thành lập đội du kích bán tập trung gồm 30 người do đồng chí Vũ Viết Hồ làm đội trưởng. Thành lập Ban tự vệ do đồng chí Phạm Quang Bình làm trưởng ban. Trung đội du kích và lực lượng tự vệ thường xuyên luyện tập kỹ thuật, chiến thuật tác chiến, canh gác, giữ gìn trật tự an ninh thôn xóm. Tổ chức nhiều buổi mít tinh, cắm lửa trại nhằm đấu tranh chống âm mưu phá hoại, mị dân của bọn phản động, vận động nhân dân xây dựng làng kháng chiến. Chi bộ lãnh đạo đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, ra tờ báo “Búa thép”, “Tiếng loa”. Trong các thôn xóm vang lên tiếng loa “Mo cau”, loa “Tôn gò” của các chiến sĩ thông tin tuyên truyền đường lối kháng chiến của Đảng, kêu gọi nhân dân cảnh giác trước âm mưu của bọn phản động, truyền tin chiến thắng của quân dân trong huyện trong tỉnh. Nhân dân phấn khởi, vui mừng khi nghe tin quân Pháp và bọn phản động bị lực lượng cách mạng tiêu diệt.

Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, phong trào xây dựng đời sống văn hoá mới diễn ra khắp thôn xóm, việc hiếu, hỷ đều thực hiện theo nếp sống mới, không tiêu dùng, mua sắm xa hoa lãng phí, nhân dân thấm nhuần khẩu hiệu “Tiết kiệm để kháng chiến”. Quán triệt chủ trương tự lực cánh sinh khắc phục khó khăn trong thời chiến, Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện phát động phong trào tự túc ăn mặc trong 1 tuần (từ ngày 7 đến ngày 14 tháng 8 năm 1948), Khang Du thành lập Ban tự túc ăn mặc gồm đại biểu của các đoàn thể quần chúng vận động nhân dân thi đua thực hiện phong trào do huyện phát động. Trong đợt thi đua trồng cây xanh, đã có gần 1.000 cây xanh được trồng khắp nơi ven đường, bờ sông, những nơi đất bị bỏ hoang nay được trồng cây. Quang cảnh xóm làng được thay da đổi thịt, những cây ăn quả, cây lấy gỗ được trồng khắp mọi nơi.

Quý III năm 1948, Huyện đội Yên Khánh mở các lớp bồi dưỡng huấn luyện quân sự: Một lớp tiểu đội trưởng du kích và xã đội phó dân quân (thời gian 10 ngày), một lớp huấn luyện quân báo viên và cán bộ trung đội (thời gian 5 ngày), một lớp huấn luyện xã đội phó dân quân (thời gian 10 ngày) cho các xã.  Xã Khang Du cử 7 đội viên trong lực lượng vũ trang tham gia các  lớp tập huấn, sau đợt tập huấn của huyện, xã mở lớp huấn luyện 7 ngày cho đội viên du kích và dân quân, đồng thời tập trung lực lượng vận động nhân dân xây dựng làng kháng chiến.

Cuối năm 1948, thực hiện “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Huyện uỷ, Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện phát động phong trào thi đua ái quốc. Chi bộ lãnh đạo thành lập Ban thi đua gồm có đại diện của chính quyền, mặt trận liên việt xã, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên để hưởng ứng đợt thi đua. Đồng thời, tổ chức phong trào thi đua tăng gia sản xuất, tiết kiệm, vệ sinh làng xóm, nhà cửa; vận động nhân dân mua công phiếu ủng hộ kháng chiến. Nhân dân xã Khang Du đã mua 1.200 đồng công phiếu kháng chiến. Khẩu hiệu “Người người thi đua, ngành ngành thi đua, ta nhất địch thắng, địch nhất định thua”, “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua” được tuyên truyền rộng rãi, biến thành hành động trong mỗi cá nhân, tập thể, tinh thần thi đua ái quốc trở thành tiêu chuẩn đánh giá lòng yêu nước của mỗi nhà.

Tháng 10 năm 1948, đồng chí Phạm Văn Dũng, Bí thư chi bộ được bổ sung vào lực lượng quân đội. Thực hiện chỉ đạo của Huyện uỷ, chi bộ tiến hành họp có 17 đảng viên trong chi bộ tham dự. Chi bộ bầu đồng chí Phạm Như Xuân làm Bí thư kiêm Chủ nhiệm xã bộ Việt Minh, đồng chí Phạm Văn Giác làm Phó bí thư kiêm chính trị viên xã đội, đồng chí Phạm Văn Bội làm Bí thư hội nông dân.

Trong thời gian này, chi bộ lãnh đạo thực hiện quân cấp công điền lần thứ 2; cấp theo khẩu mỗi khẩu 3 sào. Nhờ cấp ruộng đất nông dân có ruộng sản xuất, đời sống người nông dân được cải thiện rõ rệt. Chi bộ huy động toàn dân tham gia xây dựng làng kháng chiến, đào hầm, hào chủ động chiến đấu chống địch càn quét. Thực hiện rào làng kháng chiến, xây dựng hệ thống giao thông hào liên thôn liên xóm, toàn xã đào được 6000 m giao thông hào, xây dựng 5 “làng kháng chiến”.

Các đoàn thể nhân dân (Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Liên việt…) được kiện toàn củng cố các tổ chức này hoạt động mạnh mẽ, bám nông dân động viên họ thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc, vận động nhân dân hăng hái đóng góp cho kháng chiến, ủng hộ bộ đội. Phát động nhân dân tham gia phong trào “Hũ gạo kháng chiến”. Chỉ trong một thời gian ngắn xã Khang Du đã huy động cho Nhà nước vay 5 tấn thóc chuyển ra khu tự do an toàn.

Cùng với xây dựng lực lượng vũ trang, chi bộ đẩy mạnh phong trào xây dựng quỹ phục vụ kháng chiến như “Quỹ bảo trợ du kích, ban tự túc ăn mặc”.

Năm 1949, cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược của nhân dân ta đã trải qua gần 3 năm với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, chiến tranh du kích đã phát triển ngày càng rộng rãi ở các vùng tự do và vùng tạm bị chiếm.

Song song với phục hồi sản xuất, phát triển chăn nuôi là công tác củng cố phong trào quần chúng, các hội quần chúng, đoàn thể nhân dân được chú trọng củng cố và phát triển. Đặc biệt là đợt phát động tham gia tuần lễ xây dựng lực lượng vũ trang từ ngày 9 đến ngày 15/5/1949, thanh niên nam nữ hăng hái tham gia, nhiều lão ông, lão bà cũng tình nguyện tham gia bạch đầu quân. Hội Phụ nữ tổ chức ngày kỷ niệm phụ nữ quốc tế 8/3 học tập gương Hai Bà Trưng, Nguyễn Thị Minh Khai, thu hút hàng trăm hội viên tham dự; tổ chức chị em lao động dọn vệ sinh đường làng, ngõ xóm, thau rửa sạch giếng ăn nước.

Đầu năm 1949, khi Vĩnh Thụy ở Pháp về lập chính phủ bù nhìn, bọn tay sai bù nhìn tiến hành các hoạt động tuyên truyền, mị dân. Thực hiện chủ trương của Huyện uỷ, Uỷ ban kháng chiến hành chính xã, các đoàn thể mở đợt tuyên truyền tổ chức các hội viên, đoàn viên toả xuống từng gia đình, từng xóm, giải thích cho nhân dân nhận thức đúng âm mưu xảo trá của bọn phản động bù nhìn, nhất là âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt”. Sự kiên trì tuyên truyền giải thích đã mang lại kết quả rõ rệt, nhân dân thấy rõ âm mưu của địch nhiều người đã hăng hái phá các khẩu hiệu, băng cờ biểu ngữ của chúng.

Ngay từ thượng tuần tháng 12 năm 1948, quân địch từ Ninh Bình thường xuyên hành binh trên sông Đáy bằng ca nô, tàu chiến bắn moóc chiê vào làng mạc ven đê thuộc đất Yên Khánh, tàn phá xóm làng, đổ bộ vào làng cướp thóc gạo, gia súc, gia cầm.

Trước tình hình chiến tranh lan tới quê hương, chiến sự diễn ra ngày càng ác liệt. Huyện uỷ họp rút kinh nghiệm, các trận chiến đấu chống địch càn quét và chỉ rõ, chỉ trong 6 tháng đầu năm 1949 địch đi lại trên sông Đáy thuộc địa phận Yên Khánh 6 lần, bình quân mỗi tháng từ 1 lần đến 2 lần đổ bộ lên đất liền lớn nhất là trận càn Nhuận Ốc. Ngày 27/5/1949, Huyện ủy nhận định đây là vụ tấn công cướp lương thực thực phẩm, thăm dò lực lượng, rải truyền đơn cổ động cho bù nhìn Vĩnh Thuỵ. Từ đó, Huyện ủy chỉ đạo các xã nhất là các xã ven sông Đáy củng cố và xây dựng vững chắc làng kháng chiến, xây dựng hệ thống giao thông hào liên hoàn, cơ động chiến đấu, xây dựng các chòi canh, trạm gác, phát hiện địch từ xa. Vận động nhân dân đào hầm cất giấu lương thực, tìm hiểu nắm chắc quy luật hành quân càn quét của địch… Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện uỷ, chi bộ, Uỷ ban kháng chiến hành chính xã triển khai đồng loạt sửa chữa, xây dựng vững chắc làng kháng chiến, thiết lập nhiều chòi canh gác, hệ thống giao thông hào được củng cố, xây dựng bẫy chông, hố chông liên hoàn.

Công tác hậu phương quân đội được chi bộ Đảng và Uỷ ban kháng chiến hành chính quan tâm, chăm sóc, động viên những người bị hại trong chiến tranh. Những tháng đầu năm 1949, quân địch thường xuyên đánh chiếm thăm dò vào xóm, thôn ven sông Đáy, quân dân Khang Du thường xuyên đối mặt với quân địch tràn lên đánh phá, cướp của rồi rút xuống tàu, ca nô. Sau mỗi lần chiến đấu chống địch càn quét tổ chức Đảng và chính quyền cách mạng, đoàn thể kịp thời đến thăm hỏi động viên gia đình bị hại, ổn định tình hình và tinh thần kháng chiến trong nhân dân.

Thực hiện Thông tri của Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện, xã Khang Du đã phát động phong trào tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách, cùng vượt khó trong kháng chiến để đồng bào ta sớm ổn định đời sống. Chỉ trong vài ngày phát động, quân dân trong xã hưởng ứng mạnh mẽ, đóng góp ủng hộ, quyên góp được 1.005 đồng, hằng trăm cây tre và gỗ xoan, 3 hũ gạo giúp đỡ những người bị nạn.

Phong trào tham gia lực lượng vũ trang, mua sắm vũ khí xây dựng làng kháng chiến được đẩy mạnh. Từ đầu tháng 5/1949 đến tháng 6/1949, Khang Du đã tổ chức được tiểu đội du kích tập trung gồm 35 người, có 40 mã tấu.

Trước tình hình quân địch hoạt động đánh phá liên tục, lực lượng vũ trang xã đặt nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu lên hàng đầu, tiếp tục củng cố tu sửa, nâng cấp làng kháng chiến,  Hội bảo trợ du kích được phát triển, phong  trào thi  đua xây dựng kinh tế tự túc, tự cấp gây quỹ phục vụ kháng chiến, kiến quốc được nhân dân hưởng ứng. Thời gian này xã xây dựng được quỹ tự túc dưới dạng hiện vật, thóc, ruộng, lợn, gà… Đến tháng 6 năm 1949, đã gây quỹ được 170 đồng, 3 con lợn, 20 con gà. Quỹ bảo trợ 1.672 đồng. Khang Du quyên góp được 1.500 đồng, 14 tạ thóc, Khang Du là 1 trong những xã hoạt động khá trong huyện. Cùng với các hoạt động y tế, vệ sinh làng xóm, văn hoá nông thôn… lĩnh vực giáo dục được Uỷ ban kháng chiến hành chính xã quan tâm.

Nhằm đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, huyện Yên Khánh điều chỉnh lại địa giới các xã trong toàn huyện, từ 20 xã hợp nhất thành 7 xã để thuận lợi cho công tác quản lý và điều hành trong tình hình mới. Xã Khang Du, Yên Vệ, Tân An hợp nhất thành xã Khánh Hòa. Xã mới hoạt động từ ngày 1 tháng 7 năm 1949. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện, Khánh Hòa tập trung lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất cả trồng trọt và chăn nuôi khắc phục tình trạng gia súc, gia cầm toàn huyện cũng như Khánh Hòa bị dịch chết nhiều. Để sản xuất phát triển, công tác phục hồi đẩy mạnh chăn nuôi được chi bộ xã đặt lên hàng đầu khuyến khích nhân dân tăng gia sản xuất và phát triển chăn nuôi.

Thực hiện chủ trương của Huyện uỷ, Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện, ngày 1/7/1949, xã Khánh Hòa đã tiến hành tổ chức bầu cử, lựa chọn những người có đức, có tài vào chính quyền cách mạng. Đồng chí Phạm Khắc Thúy được bầu làm Chủ tịch. Thực hiện chỉ đạo của Huyện uỷ, chi bộ và tổ đảng của các đơn vị được hợp nhất thành chi bộ lớn theo xã mới tiện lợi cho sự lãnh đạo của chi bộ. Tổng số đảng viên của chi bộ xã Khánh Hòa có 420 đồng chí.

Hội nghị hợp nhất chi bộ xác định phương hướng nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng, cụ thể hoá phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ, do Đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ huyện Yên Khánh đề ra. Cán bộ đảng viên bám đất, bám dân, chiến đấu giải phóng quê hương, chống tư tưởng cầu an sợ giặc, dao động. Xây dựng lực lượng du kích vững mạnh tổ chức nhân dân củng cố phát triển sản xuất. Chi uỷ gồm 12 đồng chí, đồng chí Đinh Văn Đản làm Bí thư. Chi bộ được củng cố và kiện toàn các thôn thành lập liên tổ Đảng, xóm thành lập tổ Đảng. Các tổ Đảng bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ. Trước hết lãnh đạo nhân dân tập trung sức sản xuất, thực hành tiết kiệm ổn định đời sống; củng cố và phát triển các đoàn thể nhân dân; củng cố lực lượng vũ trang xã, phát triển đội viên du kích tăng cường lực lượng dân quân và dân phòng.

Lực lượng vũ trang thường xuyên luyện tập và học tập chính trị, nâng cao lập trường giai cấp, vững vàng trong đấu tranh và cảnh giác cách mạng, phát động quần chúng thực hiện “3 không” phòng gian bảo mật, sắm sửa vũ khí. Lực lượng dân quân hăng hái động viên, huy động nhân dân tập trung rào làng kháng chiến, sửa lại hệ thống giao thông hào, nối thông từ thôn nọ sang thôn kia, làng này sang làng khác, bảo đảm cơ động trong chiến đấu.

Từ chủ trương nhiệm vụ của trên, chi bộ xã Khánh Hòa tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng chuẩn bị kháng chiến, nhất là lực lượng vũ trang. Số lượng du kích được bổ sung và phát triển thêm 280 du kích tập trung, 218 dân quân. Lực lượng du kích biên chế thành 2 đại đội, đây là lực lượng thường trực chiến đấu. Lực lượng du kích, dân quân có nhiệm vụ thường xuyên canh phòng thôn, xóm... Xây dựng làng kháng chiến liên hoàn từ xóm nọ đến xóm kia, có hào sâu bao quanh nhiều lớp, nhiều khu, lòng hào cắm chông tre, chông sắt, có luỹ tre bao bọc. Mỗi làng kháng chiến  được bố trí nhiều vọng gác từ xa đến gần để phát hiện địch. Các điểm chiến đấu được xây dựng hình chữ Z, trong chiến đấu khi cần hỗ trợ cho nhau, bảo toàn lực lượng và tiêu hao sinh lực địch. Trong kế hoạch xây dựng chiến lược phòng thủ phản công địch, xã Khánh Hòa đã hình thành vành đai làng kháng chiến liên hoàn trong xã, có khả năng đánh trả đẩy lùi không cho địch càn quét tấn công vào làng.

IV. Chống địch càn quét lấn chiếm, phát triển chiến tranh du kích, đánh địch giải phóng quê hương (10/1949 - 6/1954)

Từ đầu năm 1949, quân Pháp tăng cường thực hiện kế hoạch Rơve, tăng thêm quân tinh nhuệ, liên tục mở các cuộc hành quân lớn ra đồng bằng Bắc Bộ. coi Bắc Bộ là chiến trường chính. Tỉnh Ninh Bình là một trong 3 tỉnh cùng với Hà Nam và Nam Định địch coi là nơi đột phá trong kế hoạch đánh chiếm. Trong đó, Yên Khánh, Kim Sơn là vị trí quan trọng nằm trrong kế hoạch đánh chiếm của thực dân Pháp.

Sáng ngày 16/10/1949, dưới sự chỉ huy của tên thiếu tá Pháp Mô Lát và đại uý Nguyễn Văn Vỹ đặc phái viên của Bảo Đại. Quân Pháp dùng 17 máy bay vận tải Đa-cô-ta và hơn một chục máy bay chiến đấu hộ tống, thả 300 quân dù cùng vũ khí xuống “đất thánh” Phát Diệm và nghĩa địa Lưu Phương. Từ ngày 19 đến ngày 24/10/1949, chưa đầy 2 tuần lễ giặc Pháp đã chiếm đóng 15 vị trí trên phần đất 3 huyện Kim Sơn, Yên Khánh, Yên Mô, lập thành tuyến phòng ngự dài gần 30 km từ cầu Xanh tới Điền Hộ - Nga Sơn (Thanh Hóa) bảo vệ cho Phát Diệm. Đến cuối tháng 12/1949, quân Pháp đã chiếm đóng 4 xã của Yên Khánh (Khánh Trung, Khánh Hội, Khánh Ninh, Khánh Thiện) thực dân Pháp lập đồn bốt dày đặc khống chế các hoạt động của quân dân ta chia cắt không cho bộ đội, du kích liên lạc, phối hợp chiến đấu.

Trước tình hình đó, Huyện ủy Yên Khánh chỉ đạo các xã tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng phương án tác chiến, quyết tâm đánh thắng địch ngay trận đầu. Sau khi chiếm đóng một số nơi ở Yên Khánh, quân Pháp tiến hành càn quét lùng sục vơ vét của cải, bắt bớ lực lượng của ta. Xã Khánh Hòa địa bàn đầu mối quan trọng là nơi quân địch thường xuyên lùng sục đánh phá.

Những ngày đầu chiến đấu, lực lượng du kích, bộ đội huyện nêu cao tinh thần, chiến đấu dũng cảm cản bước tiến gây cho địch nhiều thiệt hại, hạn chế thiệt hại cho nhân dân. Tuy vậy, quân địch đông, súng đạn nhiều, đánh phá ác liệt, có sự tiếp tay của bọn phản động chỉ điểm, do đó chiến sự diễn ra ác liệt căng thẳng. Để giữ an toàn lực lượng, phần lớn lực lượng du kích, cán bộ, đảng viên phải rút vào hoạt động bí mật. Dưới sự lãnh đạo của huyện uỷ, chi bộ đẩy mạnh công tác tuyên truyền, động viên phát huy tinh thần yêu nước, quyết tâm chiến đấu đánh giặc. Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Kháng chiến trên hết, quân sự trên hết, mọi việc phải nhằm vào điểm làm cho kháng chiến thắng lợi” mặt khác phải lấy việc phục hồi cơ sở  tranh thủ nhân dân làm công tác trọng tâm. Cán bộ, đảng viên phải bám đất bám dân đẩy mạnh công tác tuyên truyền thắng lợi của du kích và nhân dân ta, nêu rõ âm mưu và tội ác của giặc.

Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng (từ ngày 21 tháng 1 đến ngày 2 tháng 2 năm 1950) nêu rõ “Cần phải nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào giúp đỡ của lực lượng bạn, dựa vào sự lúng túng của địch…gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị” giành thắng lợi lớn làm triển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta. Hội nghị cũng đề ra nhiệm vụ: “Phát triển lực lượng vũ trang lớn mạnh gồm 3 thứ quân gồm: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích”. Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với lực lượng vũ trang. Ngày 5/5/1950, thực dân Pháp huy động 500 quân từ Yên Mô hành quân đánh chiếm Núi Sậu (xã Khánh Thượng). Đến đây thực dân Pháp đã hoàn tất chiếm đóng tỉnh lỵ Ninh Bình, chia cắt Ninh Bình thành vùng tạm bị chiếm và vùng tự do. Huyện Yên Khánh nằm trong vùng tạm bị chiếm. Với âm mưu “càn thanh, quét càn, diệt du”, thực dân Pháp xây dựng trên địa bàn Yên Khánh 9 đồn bốt chính và hàng trăm tháp canh rải rác ở các xã, nơi đầu mối giao thông. Chúng chia Yên Khánh thành năm tuyến để chặn đường hoạt động của lực lượng kháng chiến. Trên tuyến đường 10, chúng dựng các bốt: Cầu Vệ, chùa Cao, Vân Lai, Khương Thượng, Phúc Nhạc, chùa Hựu.

Năm 1950, trước yêu cầu mới, dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, nhằm khắc phục khó khăn ở vùng định hậu, thực hiện nhiệm vụ của Liên khu uỷ III “Phải dành lại và giữ lấy kho người, kho của ở đồng bằng Bắc Bộ”. Thực hiện Nghị quyết về “phát động chiến tranh du kích, phá tan âm mưu bình định của địch” tại hội nghị Xuân - Hè 1950 của Tỉnh uỷ. Huyện uỷ Yên Khánh chỉ đạo tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang, thành lập các đơn vị vũ trang độc lập, tiến sâu, bám chắc vùng địch tạm chiến, tranh thủ quần chúng nhân dân phá tan âm mưu bình định của địch.

Giữa năm 1950, Huyện ủy Yên Khánh tổ chức cuộc họp cấp uỷ mở rộng tới cán bộ các đoàn thể, hội của xã. Hội nghị phân tích, nhận định tình hình đề ra chủ trương, định rõ phương châm, biện pháp đấu tranh, cán bộ đảng viên phải bám đất, bám dân, bám địch, củng cố các tổ chức Đảng vững mạnh, xây dựng cơ sở kháng chiến.

Yên Vệ là thôn có nhiều đặc điểm phức tạp bọn phản động lợi dụng công giáo để làm chỗ dựa chống phá cách mạng, chúng bắt thanh niên đi lính, tổ chức các đội quân “Tử vì đạo”, tổ chức tập hợp một số thanh niên công giáo với chiêu bài “Bảo vệ đất thánh” để lùng sục bắt giết cán bộ, đảng viên, người kháng chiến, đốt phá nhà cửa nhân dân, kích động chia rẽ đoàn kết giáo, lương. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cấp uỷ, chỉ trong thời gian ngắn, cán bộ, đảng viên đã bí mật liên lạc được với những đảng viên nằm lại cơ sở bám đất, bám dân hoạt động. Mặc dù bọn địch ngày đêm lùng sục ráo riết, bọn “Thanh niên diệt cộng” rình mò, phục kích ở các ngả đường, nhưng du kích, cán bộ vẫn qua lại hoạt động. Được nhân dân ủng hộ, giúp đỡ, che chở, ta có nhân mối trong các tổ chức, các đồn địch. Lực lượng du kích Yên Vệ phối hợp với du kích các xã lân cận phục kích diệt tên Chánh bảo an thôn Yên Phú đang trên đường từ đồn về nhà có vệ sĩ đi hộ tống. Sau vài ngày, du kích lại tiêu diệt 6 tên “Thanh niên diệt cộng”.

Ngày 10/5/1950, địch hành quân đốt phá mở rộng vành đai củng cố tăng cường chiếm đóng các đồn Cầu Vệ, Chùa Hựu, Đền Ninh. Thôn Hào Phú là nơi công giáo toàn tòng do linh mục Hiến phụ trách, thành lập một trung đội lính dõng do Đỗ Đình A chỉ huy. Trung đội lính dõng được trang bị đầy đủ vũ khí, quân dụng đóng tại nhà xứ với danh nghĩa bảo vệ nhà xứ.

Thời gian này, địch lập và củng cố một loạt đồn bốt như Cánh Diều (Thị xã Ninh Bình, nay là thành phố Ninh Bình), đền Ninh (Ninh Sơn), Chùa Hựu (Yên Phó), Cầu Vệ (Yên Vệ) nhằm bảo vệ kiểm soát án ngữ tuyến đường 10 từ phía nam Thị xã Ninh Bình (nay là thành phố Ninh Bình) nối liền với Chùa Cao đi Phát Diệm. Mỗi đồn có 1 đại đội vệ sỹ đóng giữ. Đồn Chùa Cao và đồn Cánh Diều mỗi đồn có 1 tiểu đoàn, trong đó có lính Âu Phi đóng giữ. Đối diện nhà thờ Hào Phú về phía Nam Định là bốt Vĩnh Trị. Xã Khánh Hòa nằm lọt giữa các đồn bốt của địch.

Chùa Cao là một đồn tiền tiêu của khu vực Bùi Chu - Phát Diệm, được xây dựng kiên cố bởi các lô cốt, boong ke; vị trí Chùa Cao nằm cạnh đường số 10; từ đây có thể kiểm soát toàn bộ các hoạt động thuỷ, bộ trên tuyến sông Đáy, quốc lộ số 10, phát huy được tối đa khả năng mở rộng địa bàn càn quét lấn chiếm và phòng ngự. Vị trí Chùa Cao trở thành điểm tựa cho các đồn bốt, vị trí tề dòng đóng quân trong khu vực hàng ngày lùng sục cán bộ, du kích và những người tham gia kháng chiến.

Xã Khánh Hòa (xã mới) có 9 thôn (Văn Giáp, Yên Cống, Yên Bắc, Yên Phú, Yên Xuyên, Yên Vệ, Hào Phú, Phương Du, Yên Khang). Có 8 thôn địch lập được ban tề. Duy nhất thôn Phương Du địch không lập được ban tề, dõng; bọn địch cay cú càng điên cuồng đánh phá, lùng sục ráo riết. Thời gian này Khánh Hòa gặp muôn vàn khó khăn. Cán bộ, đảng viên phải sơ tán ra vùng tự do bảo toàn lực lượng, một số đồng chí hoạt động tại địa bàn bị địch bắt. Địch tăng cường càn quét, bắt người cướp của, bắn giết dã man gây cho nhân dân hoang mang lo sợ.

Bọn phản động ở Yên Vệ công khai chống đối cách mạng; cùng với lập tề, chúng còn tập hợp những tên lưu manh, côn đồ trộm cắp và một số binh lính cũ của Pháp trước cách mạng Tháng Tám trốn chạy về làng khi Nhật đảo chính Pháp dựng nên các tổ chức phản động như “Bảo an đoàn” và “Đoàn thanh niên diệt cộng” để chống phá cách mạng, các tổ chức này có lúc lên tới 50 tên. Hàng ngày bọn chúng cùng quân lính đồn cầu Vệ vào các xóm thuộc thôn Yên Vệ tìm bắt cán bộ, du kích. Chúng thẳng tay bắt dân chặt tre, gỗ làm đồn bốt, đắp đoạn đường số 10 bị ta phá trước đây, chúng điên cuồng khủng bố các gia đình cách mạng, gia đình cán bộ, có người tham gia kháng chiến.

Bọn “Thanh niên diệt cộng” thôn Yên Vệ cấu kết với lính đồn Cầu Vệ đánh rộng ra các thôn lân cận, nhất là Phương Du. Thôn Phương Du là địa bàn kháng chiến vững chắc là căn cứ kháng chiến của Khánh Hòa, do vậy bọn phản động ra sức dòm ngó, chỉ điểm lính các đồn càn quét, lùng sục, cướp bóc, tàn phá nhà cửa của nhân dân. Chúng bắt gia đình cách mạng và những người nghi ngờ tham gia kháng chiến (có cả người già) xuống đồn Cầu Vệ đánh đập, khảo tra.

Đêm ngày 2/8/1950, chúng bắt đồng chí Nguyễn Văn Nhị thôn đội phó Phương Du đi làm nhiệm vụ và ông Phạm Văn Sộp (cơ sở bí mật) xóm chợ Dầu. Chúng bắt 2 người về đồn cầu Vệ đánh đập tra tấn dã man, tra khảo song 2 chiến sỹ trung kiên không hề nao núng tinh thần, bảo vệ bí mật cơ sở đến cùng không hề khai báo. Thất bại trước khí tiết của chiến sỹ cách mạng, ngày 14/8/1950 chúng bắn chết 2 chiến sỹ tại khu vực đồng Ốc rồi ném thi thể xuống vũng nước.

Mặc dù bị địch và bọn phản động trà đi sát lại càn quét, khủng bố, nhưng dưới sự lãnh đạo sát sao của chi bộ, chính quyền, cán bộ, đảng viên nhân dân Khánh Hòa nói chung, thôn Phương Du nói riêng vẫn tin tưởng vào đường lối kháng chiến của Đảng, tin tưởng kháng chiến thành công; nhân dân Phương Du sẵn sàng chịu đựng hy sinh, gian khổ một lòng một dạ tham gia kháng chiến, kiến quốc.

Thực dân Pháp, bọn phản động thẳng tay đàn áp giết hại người tham gia kháng chiến hòng làm lung lạc tinh thần cách mạng của cán bộ, đảng viên, du kích và nhân dân; song chúng đã lầm, hành động man rợ của chúng, nhất là sau khi giết chết đồng chí Nguyễn Văn Nhị và ông Phạm Văn Sộp (14/8/1950) đã thổi bùng lên ngọn lửa căm hờn của nhân dân Phương Du. Bộ mặt tàn ác của bọn “Thanh niên diệt cộng” Yên Vệ và bọn lính đồn cầu Vệ lộ bản chất là những tên khát máu. Ngay sau đêm đồng chí Nguyễn Văn Nhị và đồng chí Phạm Văn Sộp hy sinh, Chi uỷ, Uỷ ban hành chính Khánh Hòa triệu tập cuộc họp bất thường mở rộng tới các liên tổ Đảng Phương Du bàn biện Pháp đấu tranh, tuyên truyền vận động nhân dân để mọi người yên tâm sản xuất và phục vụ kháng chiến.

Chi uỷ, Uỷ ban hành chính, các đoàn thể tập hợp nhân dân các thôn xóm chỉ rõ âm mưu thâm độc và hành động tàn ác của thực dân Pháp và bọn tay sai phản động cho nhân dân biết; động viên nhân dân yên tâm tin tưởng vào đường lối kháng chiến của Đảng và Chính phủ, tin tưởng vào sự lãnh đạo của chi bộ. Chi bộ phát động phong trào “Biến đau thương thành hành động cụ thể”, động viên nhân dân giữ vững tinh thần đấu tranh, quyết tâm chiến đấu tiêu diệt địch trả thù cho đồng chí, đồng bào.

Được sự chỉ đạo sát sao của chi bộ, lực lượng Việt Minh du kích Phương Du, Yên Khang kết hợp chặt chẽ với du kích Yên Phú phục kích tiêu diệt tên Đinh Văn Xưng, Chánh bảo an khi tên này ở đồn Chùa Hựu về đến gần đền Thượng Yên Phú; bắt tên Đinh Văn Chiểu, thư ký của bảo an thu toàn bộ sổ sách, đưa tên Chiểu ra vùng tự do cải tạo, cảnh cáo, giải tán ban bảo an Yên Phú và những tên còn lại cho về làm ăn với gia đình.

Liên khu ủy khu III mở chiến dịch Trần Hưng Đạo. Du kích Phương Du, Yên Khang, Yên Phú phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương đánh tiêu hao sinh lực địch cầu Vệ, lượng du kích bắt tên Nguyễn Văn Phiếm một tên phản động gian ác trong thanh niên diệt cộng Yên Vệ, nhiều tên khác phải bỏ chạy khỏi đồn. Cùng với đánh đồn, lực lượng du kích hoạt động mạnh, bắt tên chánh hội Bất là chánh bảo an Hào Phú, cảnh cáo tên Ất là phó chánh bảo an Yên Cống. Do đó nhiều tên phản động không dám hoạt động công khai, một số bỏ ngũ về với gia đình, nhiều ban tề, dõng bị phá vỡ.

Thu Đông năm 1950, bị đánh mạnh ở biên giới Việt Trung, địch điều quân ở đồng bằng lên ứng chiến. Lợi dụng vùng địch hậu sơ hở, thực hiện chủ trương của Liên khu III, từ ngày 9 đến ngày 31/10/1950, lực lượng vũ trang Ninh Bình mở chiến dịch Trần Hưng Đạo. Lực lượng vũ trang Yên Khánh phối hợp với đại đội 195 của tỉnh liên tiếp tấn công các vị trí địch ở Yên Khánh. Tại Yên Vệ, du kích xã Khánh Hòa phối hợp bộ đội địa phương chủ động tấn công tiêu hao sinh lực địch đồn cầu Vệ, một vị trí quan trọng của địch án ngữ đường 10. Trận này du kích xã làm chủ địa bàn truy lùng bắt bọn phản động gian ác, gây nhiều tội ác với nhân dân. Thừa thắng, du kích đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tuyên truyền, xâm nhập vào thôn Hào Phú phá tề, trừ gian, gây cơ sở trong đồng bào công giáo.

Dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, thực hiện phương châm kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, địch vận đánh đồn. Sau trận càn lớn ngày 28/4/1950, quân địch tăng cường lực lượng chiếm đóng 3 vị trí trọng yếu trên địa bàn Khánh Hòa, đồn cầu Vệ (thôn Yên Vệ), đồn chùa Hựu (thôn Yên Phú), Đền Ninh (Ninh Sơn) án ngữ phía bắc tuyến đường 10. Chia cắt Khánh Hòa ra làm đôi, án ngữ đường giao thông liên lạc thường xuyên đưa bộ đội, cán bộ từ vùng tự do ra vào hoạt động trong khu du kích vùng tạm chiếm. Nhằm phá thế án ngữ của địch, chi bộ Khánh Hòa quyết tâm đánh đồn chùa Hựu, chặt đứt mắt xích quan trọng trong tuyến phòng thủ của địch. Đồn chùa Hựu có 1 đại đội vệ sĩ của Lê Hữu Từ, sẵn sàng “tử vì đạo”. Bọn lính trong đồn khét tiếng gian ác, giết người không ghê tay. Chúng thường xuyên khủng bố cơ sở kháng chiến gây nhiều tội ác với nhân dân trong vùng. Là vị trí quan trọng, lại bị lực lượng du kích, bộ đội địa phương thường xuyên tấn công, chúng bổ sung thêm đại đội “Hổ xám” (đại đội Hoàng Quỳnh). Bọn địch sử dụng một trung đội biệt động bảo vệ vòng ngoài gần 30 tên. Chi bộ lập phương án đánh đồn chùa Hựu bằng nội ứng chiến và được Huyện uỷ phê duyệt phương án tác chiến. Chi bộ giao cho tổ binh vận  3 người do đồng chí Đinh Hữu Ân phụ trách. Lúc 21 giờ 30 phút ngày 18/10/1950, đại đội 195 bí mật áp sát trận địa hỗ trợ cho lực lượng du kích làm nhiệm vụ. Có sự tham  gia tích cực của nội ứng du kích tiếp cận vị trí đóng quân (nhà ông Lạng, xóm Đoài) bắt toàn bộ trung đội địch và thu vũ khí. Một vài tên ngoan cố chống cự bị tiêu diệt.

Trận đánh diễn ra nhanh gọn, an toàn đã khẳng định năng lực tổ chức chiến đấu và công tác binh vận của dân quân du kích xã.

Sau trận này, bọn tề dõng hoảng sợ, nhiều ban tề tự tan rã. Một số tên ác ôn trong vùng lần lượt bị tiêu diệt. Nhiều tên sợ hãi tự ra đầu thú, trở về làm ăn với xóm làng. Trận đánh mang lại hiệu quả, được Tỉnh đội Ninh Bình biểu dương, đồng chí chính uỷ quân khu III gửi thư khen ngợi. Thắng lợi trận đánh làm nức lòng nhân dân, tăng thêm niềm tin tưởng của quần chúng đối với sự lãnh đạo của chi bộ và tinh thần chiến đấu, sự khôn khéo của du kích.

Sau chiến thắng Biên giới Thu Đông 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn chuẩn bị tổng phản công. Kế hoạch Rơ ve của địch bị thất bại. Một kế hoạch mới của quân Pháp lại ra đời, kế hoạch của Tướng Đờ lát đờ tát xi nhi (Deletta de Tassigny). Năm 1951, cùng với việc xây dựng các binh đoàn cơ động, địch tăng cường bình định, phát triển nguỵ quân, ngụy quyền tăng cường càn quét, lập phòng tuyến trắng, tạo ra hành lang trắng để cắt đứt các tuyến liên lạc của ta.

Tháng 3 năm 1951, Đảng bộ huyện Yên Khánh đại hội lần thứ 2. Đại hội phê phán tư tưởng cầu an, thiếu gương mẫu của một số cán bộ, đảng viên trong thời gian địch hoạt động mạnh ở địa phương. Đại hội nhấn mạnh nhiệm vụ đẩy mạnh chiến tranh du kích ngay trong lòng địch, tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang, phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu, tranh thủ quần chúng nhân dân… Thực hiện nhiệm vụ của Đại hội Đảng bộ huyện, quân dân xã Khánh Hòa được sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ đã hăng hái, tích cực chuẩn bị lương thực, quần áo, đào thêm hầm bí mật, vận động thêm người vào du kích, tích cực ủng hộ kháng chiến, hăng hái tham gia các phong trào phục vụ kháng chiến, mua công phiếu kháng chiến, tặng quà binh sỹ, quyên góp áo mùa đông, chăn gửi ra chiến trường.

Chi bộ mở đợt học tập, quán triệt tinh thần Đại hội Đảng bộ huyện. Cùng với việc quán triệt khắc phục tư tưởng ngại khó, chống tư tưởng cầu an, giảm sút ý chí đấu tranh, chi bộ đã biểu dương tinh thần công tác và chiến đấu của một số cán bộ đảng viên.

Năm 1951, thực dân Pháp hy vọng bình định được vùng đồng bằng Bắc Bộ, mở rộng chiếm đóng Ninh Bình. Chúng hy vọng dựa vào uy lực, vũ khí mạnh và tiềm lực kinh tế để hòng giành thắng lợi trong các cuộc hành quân càn quét. Bọn phản động hoa mắt trước vũ khí mạnh của thực dân Pháp, huyênh hoang, táo tợn, đe doạ du kích, bộ đội và nhân dân, hòng khuất phục quân dân ta bằng những lời đe doạ và hành động giết người man rợ.

Được quán triệt học tập, phong trào đấu tranh của nhân dân tiếp tục được giữ vững, tinh thần, ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên, du kích được củng cố. Nhiệm vụ bám đất, bám dân và đấu tranh phát triển chiến tranh du kích tại địa bàn được chú trọng. Cuối tháng 5 năm 1951, dân quân du kích huyện Yên Khánh cùng bộ đội tỉnh thường xuyên tấn công các vị trí địch trên địa bàn huyện.

Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở vùng nông thôn làm cho quân địch ăn không ngon, ngủ không yên. Các vị trí đóng quân thường xuyên bị tấn công, hao người, tốn của. Từ ngày 28/5 đến ngày 20/6/1951, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Quang Trung trên địa bàn 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, các Đại đoàn 308, 304 và 320 cùng một số đơn vị hỏa lực phối hợp có nhiệm vụ tiến công địch trong vùng sâu thuộc các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá tan lực lượng ngụy quân tạo thế cho cuộc chiến tranh nhân dân phát triển ở vùng đông dân. Tại địa bàn Khánh Hòa, rạng sáng ngày 29/5, dân quân du kích xã phối hợp cùng bộ đội địa phương, các chiến sĩ Trung đoàn 66 (Đại đoàn 304) chủ động áp sát bốt chùa Dầu (Yên Vệ) tấn công tiêu diệt gọn 2 đại đội vệ sĩ, cắt đứt đường tiếp viện của địch từ phía Phát Diệm.

Trong chiến dịch Quang Trung, quân dân xã Khánh Hòa cùng với dân quân Yên Khánh góp phần cùng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, tiêu diệt 3.585 tên địch (60% lính Âu Phi) thu gần 1.000 súng các loại, đánh đắm 1 tàu chiến, phá vỡ phòng tuyến sông Vạc, chọc thủng phòng tuyến đường 10, cắt đường viện trợ của địch từ Phát Diệm lên Ninh Bình. Các vị trí địch ở Yên Thịnh, Yên Ninh, Yên Vân, Hạ Giá, cầu Rào, Vân Bòng, Tiên Yên, đền Đức Ông, chùa Hựu… hoảng hốt phải ra hàng tự bỏ chạy khỏi vị trí.

Trong chiến dịch Quang Trung, thôn Phương Du huy động được 300 dân công vận chuyển đạn, tải thương phục vụ chiến dịch, trong vòng một ngày một đêm ủng hộ cho bộ đội được 2.200 kg gạo, 2 con lợn khoảng 70 kg, một con bò và rau các loại…chiến dịch Quang Trung thắng lợi, tạo bước phát triển quan trọng trong chiến tranh du kích ở khu vực Hà Nam Ninh. Hai thôn Phương Du, Yên Khang là địa bàn địch tàn phá nặng nề, gây nhiều thiệt hại về người và của. Từ 8 giờ sáng ngày 28 đến 4 giờ chiều ngày 29 tháng 4 năm Tân Mão máy bay địch rải bom Napan từ đầu xóm Đông đến giữa xóm Xuân làm chết 35 người (4 người sơ tán); Thiệt hại 25 nhà, làm sập hầm chết 9 người (vườn nhà cụ Ca), Trong thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp, Phương Du là thôn chịu thiệt hại nặng nhất xã.

Sau chiến thắng của quân dân ta bọn địch sợ hãi, hoang mang dao động, phải co cụm, cố thủ một số vị trí then chốt chùa Cao, Phúc Nhạc, Cánh Diều (Ninh Bình) để phòng thủ chống đỡ. Sau chiến dịch, Khánh Hòa trở thành khu du kích liên hoàn, Khánh Vân - Khánh Thịnh. Tuy nhiên, Khánh Hòa lúc này vẫn còn là vùng tranh chấp giữa ta và địch.

Tuyến đường số 10 từ Ninh Bình đi Phát Diệm và sông Đáy là tuyến giao thông quan trọng cho cơ động hành quân càn quét của địch, chúng tăng cường lực lượng để cố chiếm giữ làm chủ địa bàn. Trên đoạn đường số 10 (khoảng 4000m) địch dựng 6 bốt gác, thường xuyên cho quân dò mìn và thay phiên tuần tra canh gác, các bốt gác thường từ 1 tiểu đội đến 1 trung đội gác ban ngày, đêm rút quân về thị xã Ninh Bình. Nắm vững hoạt động của địch, lực lượng du kích cùng dân công ban đêm tổ chức phá đường, cài đặt mìn đánh xe và quân lính đi càn.

Thất bại lớn ở chiến trường chính, quân Pháp thẳng tay đàn áp, phá hoại sản xuất và nhà cửa của nông dân. Chúng thực hiện “tam quang” (đốt sạch, giết sạch, phá sạch) hòng tiêu diệt cơ sở kháng chiến và lung lạc tinh thần nhân dân. Khánh Hòa là xã có vị trí quan trọng, nối liền thị xã Ninh Bình và huyện Kim Sơn, bám trục đường 10. Từ xã Khánh Hòa có thể tiếp cận qua lại từ chợ Dầu đi Ý Yên (Nam Định), đi về Yên Phú, Xuân An, đi bến Vạc sang huyện Yên Mô. Do vậy, quân địch tập trung hoạt động, tàn phá đốt cháy nhà dân. Thôn xóm hoang tàn, xơ xác, nhiều xóm bị giặc đốt cháy cả xóm, không sót một nhà nào. Điển hình là xóm Đông, xóm Thượng (Phương Du). Nhiều lần quân địch huy động tới 4 máy bay Đa-cô-ta dải bom Napan từ chợ Dầu cho tới Yên Khang. Nhiều gia đình ở Yên Khang bị bom đạn địch giết chết. Thôn Thuần Đầu, bom đạn địch cày đi xới lại nhiều lần, tiêu điều xơ xác.

Mặc dù thực dân Pháp dã tâm tàn sát, nhưng không lung lạc được tinh thần của quân và dân trong xã, bom đạn giặc không làm nao núng ý chí đấu tranh của quân dân Khánh Hòa. Nhân dân Khánh Hòa biến đau thương, mất mát thành hành động cách mạng, sục sôi căm thù bọn cướp nước. Nhiều cơ sở cách mạng được giữ vững trong mưa bom, bão đạn của quân thù. Có những cụ già đã 50 tuổi cũng hăng hái xung phong đi phục vụ kháng chiến.

Quân địch điên cuồng đánh phá, đội du kích Khánh Hòa không những không chùn bước chiến đấu mà tiếp tục bổ sung lực lượng, rèn đúc, cướp vũ khí của địch, chủ động tấn công địch. Khánh Hòa một trong những xã có đội du kích  mạnh của Yên Khánh, dũng mãnh trong chiến đấu, mưu lược trong đấu tranh.

Cuối năm 1952, một ô tô của địch chở lính từ Phúc Nhạc lên Yên Vệ để lùng sục, càn quét. Du kích Khánh Hòa nhanh chóng đặt mìn và mai phục tại cây đa chợ Dầu. Ô tô bị mìn, du kích đồng loạt nổ súng, một số tên bị giết, nhiều tên bị thương, trong đó có tên quan tư Pháp.

Thời gian này, bọn tề, dõng hoạt động mạnh, chúng ráo riết lùng sục tìm bắt cán bộ, du kích, người tham gia kháng chiến. Một lần, theo kế hoạch, 1 tổ du kích triển khai đội hình bắt tên Chánh tổng Viện (người Tân An). Được quân báo cho biết, một toán dõng đang truy tìm hầm cán bộ, bao vây và bắt giết cán bộ; không chần chừ, du kích xã nhanh chóng quay lại triển khai đội hình chiến đấu, bám sát địa hình địa vật, áp sát bao vây toán dõng. Tiểu đội du kích Khánh Hòa mưu trí phát huy lợi thế làm chủ địa hình, tiêu diệt và bắt gọn 17 tên dõng, bảo đảm an toàn cho lực lượng ta.

Cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của địch, chi bộ Đảng kịp thời lãnh đạo xây dựng các phương án tác chiến, các đoàn thể quần chúng cử hội viên tích cực bám dân, nói rõ thủ đoạn của địch. Mặt khác, nắm vững chủ trương của huyện uỷ, củng cố Ban bình dân học vụ xã, tổ chức đều đặn các buổi học tập, không để trống thời gian cho văn hoá đồi trụy của địch len lỏi vào đời sống nhân dân. Thời gian này huyện Yên Khánh tổ chức 1 lớp huấn luyện nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho 27 giáo viên sơ cấp của các xã Khánh Thịnh, Khánh Vân, Khánh Hòa. Riêng xã Khánh Hòa cử 10 giáo viên, thời gian huấn luyện 4 ngày.

Song song với nâng cao dân trí, chi bộ quan tâm chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Được sự quan tâm của huyện, Khánh Hòa xây dựng trạm y tế và cử 9 cán bộ đi dự lớp huấn luyện đào tạo cán bộ y tế do huyện mở từ ngày 10 đến ngày 18/8/1952 để phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân. Nhân dân phấn khởi, hăng hái lao động, sản xuất phục vụ kháng chiến và tin tưởng vào sự lãnh đạo của chi bộ, tin vào đường lối kháng chiến của Đảng.

Trong năm 1952, quân địch thường xuyên bắn phá, phá hoại sản xuất, bằng nhiều hình thức đấu tranh, nhân dân Khánh Hòa đã hạn chế được sự tàn phá của địch. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, các đoàn thể quần chúng tổ chức nhân dân 5 lần kéo về các vị trí địch đóng quân đấu tranh đòi được sản xuất, xoá vành đai trắng dọc tuyến đường 10 trên địa bàn xã Khánh Hòa. Trung tuần tháng 6/1952, xã Khánh Hòa huy động 100 lượt dân công phá bốt cầu Xanh, Hạ Giá… Phát động quần chúng đấu tranh, bảo vệ, củng cố chính quyền dân chủ, đồng thời chi bộ lãnh đạo tìm biện pháp đấu tranh làm suy yếu, phá bộ máy chính quyền nguỵ. Trước sức mạnh đấu tranh của nhân dân, bọn tề, dõng phải chùn tay, nhiều ban tề bị vô hiệu hoá. Một số tên tề ác, phản động có nhiều nợ máu với nhân dân phải bỏ địa bàn chạy xuống Phúc Nhạc, Phát Diệm ẩn náu.

Đối với những phần tử lầm đường lạc lối nhận rõ lỗi lầm, cải tà quy chính về với nhân dân, chính quyền dân chủ mở lượng khoan hồng tha thứ. Trước sự khoan hồng của Đảng và yêu thương của nhân dân họ vô cùng phần khởi, cùng nhân dân phục vụ kháng chiến, lấy công chuộc tội.

Nắm được quy luật hoạt động của địch trên đường 10, giữa tháng 6 năm 1952 hai trung đội du kích thôn Phương Du, Yên Khang do đồng chí Phạm Quang Bình, xã đội trưởng chỉ huy nhiều lần phục kích đánh xe địch hành binh trên đường 10, xe địch bị trúng mìn, nhiều tên địch bị tiêu diệt, có trận lật đổ tới 5 xe, hàng chục tên địch bị chết và bị thương, trong đó có tên quan 3 Pháp. Sau những thắng lợi của ta trên đường 10, bọn địch hoang mang sơ hãi, không dám liều lĩnh hành quân liên tục như trước đây.

Giáp với khu du kích Khánh Hòa, xã Ninh Sơn (Gia Khánh) vẫn còn là vùng địch kiểm soát. Chúng có 1 đại đội địa phương quân đóng tại xóm Bắc, Yên Phong (phường An Bình, xã Ninh Sơn ngày nay) do tên đội Hàm chỉ huy, địa phương này có một lực lượng ngụy quyền tổ chức chặt chẽ từ Tổng uỷ đến xã uỷ, hàng ngày bọn chúng càn quét, lùng sục, truy tìm du kích cán bộ, tăng cường bắt phu, bắt lính, vơ vét tài sản nhân dân.

Được tỉnh chỉ đạo, mở rộng khu du kích, theo đề nghị của huyện Gia Khánh, huyện Yên Khánh tham gia phối hợp chiến đấu diệt tề, phá nguỵ khu vực giáp ranh 2 huyện Yên Khánh và Gia Khánh. Cùng thời gian này, tên Việng, Tổng ủy Yên Xuyên thường dẫn bọn lính chùa Cao về càn quấy các thôn Yên Cống, Yên Xuyên, Văn Giáp cướp bóc của cải của nhân dân, lực lượng du kích bám sát hoạt động của tên Việng và bọn tề dõng. Trong thời gian này, một số cán bộ huyện Gia Khánh về hoạt động khu xóm Rậm bị địch phát hiện, bao vây và bị bắt. Chúng đưa những người bị bắt về Yên Phúc tra hỏi. Được tin báo, đồng chí Phạm Quang Bình và đồng chí Lê Đình Ánh hội ý vạch phương án giải cứu số cán bộ và nhân dân bị bắt. Thực hiện phương án tác chiến gồm 2 trung đội du kích chia 2 mũi tiếp cận địa bàn. Mũi thứ nhất đồng chí Phạm Quang Bình dẫn 1 trung đội vận động tắt ngang cánh đồng Phương Du lên thẳng Yên Phúc. Mũi thứ hai, đồng chí Lê Đình Ánh dẫn một trung đội băng qua Yên Vệ thẳng đường lên Yên Phúc. Khi lực lượng ta đến nơi bọn địch đã chạy về thị xã Ninh Bình. Phương án hai được triển khai kịp thời, một trung đội do đồng chí Ánh phụ trách vận động vào làng Yên Phúc bắt tên Lý Ứng (Tổng ứng tề), trung đội do đồng chí Bình phụ trách vào Đào Công bắt tên Khải và tên Đài là Chánh, phó bảo an Đào Công, thừa thắng trung đội nhanh chóng vận động tới Yên Khoái bắt tên Báu là Chánh bảo an và tên Thợi là thư ký bảo an, trên đường đi trung đội du kích còn bắt được tên Thân quân báo của địch và một số tề, dõng. Hoàn thành nhiệm vụ, hai trung đội tập kết về địa điểm an toàn tại xóm Ngoại, Yên Khang, phân loại các đối tượng, những tên nhiều tội ác nguy hiểm như tên Ứng, Đài, Khải, Thợi, Báu Thân chuyển ra vùng tự do bàn giao cho xã Ninh Sơn, đưa đi cải tạo.

Cùng thời gian này, du kích Khánh Hòa còn phối hợp với du kích Ninh Phong, Ninh Sơn, Ninh An (Gia Khánh) truy bắt và tiêu diệt một số tên, như tên Cuồi, tên Thứ, tên Nhân, Chánh phó bảo an, phá vỡ một số ban tề, điển hình là Ban tề Đông Trang.

Đại đội địa phương quân đóng tại xóm Bắc, Yên Phong do tên Hàm chỉ huy bị du kích Phương Du, Yên Khang phối hợp với bộ đội địa phương tập kích đánh tan, tiêu diệt một số tên, bắt 37 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng; du kích áp giải bọn địch về đền Trung, Yên Khang sau đó chuyển bàn giao cho tỉnh đưa đi cải tạo.

Các ban tề nguy hiểm và những tên phản động ác ôn bị phá vỡ và tiêu diệt, nhân dân Ninh Sơn, Ninh Phong, Ninh An (Gia Khánh) vô cùng phấn khởi, yên tâm lao động sản xuất và tin tưởng hơn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Địa bàn khu du kích được mở rộng (từ quốc lộ 1A xuống vùng Khánh Hòa, Yên Khánh).

Cuối năm 1952 đầu năm 1953, lợi dụng lúc ta đang gặp nhiều khó khăn, thiên tai liên miên, sâu bệnh phát triển phá hoại mùa màng, quân địch tập trung lực lượng đánh phá ác liệt. Chúng mở cuộc càn quét 8 xã huyện Yên Khánh. Ngày 21/1/1953, địch tập trung quân ở chùa Cao đi càn quét. Lực lượng du kích Khánh Hòa phối hợp với du kích xã Khánh Vân có sự hỗ trợ của một đại đội bộ đội chủ lực (Đại đoàn 320) phục kích, chủ động đánh địch. Trận này ta diệt nhiều tên, thu một số súng trường, lựu đạn, phá tan cuộc càn quét của địch.

Bị đánh liên tục bọn địch hoang mang, lo sợ chúng sợ hãi trước việc lúc hiện, lúc ẩn của du kích. Sau một loạt trận đánh của du kích, bọn địch thất bại liên tiếp hao binh tổn tướng. Quân địch treo giải thưởng bắt đồng chí Phạm Quang Bình người chỉ huy du kích Khánh Hòa.

Mỗi khi lùng sục bắt được cán bộ, đảng viên, du kích hoặc dân thường chúng đều lừa phỉnh hoặc tra khảo “du kích ở đâu, Phạm Quang Bình ở đâu?” song người chiến sỹ cách mạng, người đảng viên trung kiên Phạm Quang Bình vẫn an toàn bình yên trong thế trận lòng dân.

Sau những thất bại liên tiếp ở đồng bằng Bắc Bộ, lại bị uy hiếp mạnh ở hướng tây bắc buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động để đối phó.

Trên các chiến trường quân ta càng đánh càng thắng lớn, dồn quân địch lún sâu vào thế bị động, lúng túng. Nhằm gỡ thế bị động, ngày 15/10/1953, địch tập trung quân mở cuộc tấn công vào vùng tự do Tây Nam Ninh Bình. Để phối hợp với chiến trường chính và thực hiện chủ trương của Liên khu uỷ III, sau khi tổng kết du kích chiến tranh, Tỉnh uỷ Ninh Bình phát động “một tháng hoạt động mạnh” chuẩn bị cho chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, Chi bộ Khánh Hòa chủ trương vừa đẩy mạnh phát triển du kích, củng cố lực lượng, vừa tuyên truyền tranh thủ nhân dân. Kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. Kết hợp quân sự, kinh tế địch vận. Xã Khánh Hòa tổ chức hội nghị các gia đình có người đi ngụy quân, ngụy quyền tại đình Yên Phú. Hội nghị phổ biến, tuyên truyền đường lối kháng chiến của Đảng, chính sách khoan hồng của Chính phủ đối với những người lầm đường lạc lối, buộc phải đi lính cho địch do địch cưỡng bức không gây tội ác với nhân dân. Uỷ ban hành chính, Mặt trận Việt Minh động viên nhân dân đòi chồng con, người thân trở về với gia đình, không đi lính làm bia đỡ đạn cho giặc Pháp. Sau hội nghị, nhiều binh lính ở các đồn bốt bỏ ngũ về với gia đình, nhất là quân đồn chùa Cao.

Thực hiện nhiệm vụ, tích cực chuẩn bị cho chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, Chi bộ xã Khánh Hòa lãnh đạo quân dân tích cực đẩy mạnh mọi hoạt động chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

Nhân dân Khánh Hòa hăng hái sôi nổi, thi đua thực hiện các chỉ tiêu được giao. Chỉ trong thời gian rất ngắn, các xã đã chuẩn bị được 20 tạ thóc, 15 con lợn, 3 vò mắm tép, 7 gánh củi, 8 cáng tải thương, 490 cây luồng, tre, nứa, huy động 500 dân công chuẩn bị sẵn sàng phục vụ chiến đấu.

Trong thời gian cuối năm 1953 địch tập trung quân cơ động cùng quân địa phương mở nhiều trận càn quét lớn vào khu du kích Khánh Hòa, chúng đốt phá nhà cửa, đồng ruộng, hãm hiếp, bắn giết nhân dân. Chúng đốt phá 210 ngôi nhà, xóm Chợ, xóm Đông, xóm Thượng (Phương Du), bắt hàng trăm người dân đánh đập dã man, đưa về trại giam.

Trước tình hình khó khăn, phức tạp, chi bộ tập trung chỉ đạo xã đội Khánh Hòa xây dựng phương án chiến đấu. Du kích Phương Du, Yên Khang phối hợp bộ đội huyện, tỉnh chôn mìn, phục kích đánh xe binh lính địch đi càn trên đường 10 làm cho địch chùn chân hoang mang lo sợ. Có trận du kích phục kích khu vực chợ Dầu bắt được tên trưởng phó Phòng Đơ-Zen-bia-rô của Bùi Chu - Phát Diệm đi thị xã Ninh Bình, du kích đốt xe, khám xét trong người có giấy chứng minh thư do thực dân Pháp cấp và một khẩu súng lục.

Phát huy thắng lợi, cùng với quân dân trong huyện, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ quân dân Khánh Hòa, không ngừng mở rộng khu du kích, làng kháng chiến, nối làng kháng chiến tạo thành thế trận liên hoàn phá tan các cuộc càn quét của địch. Du kích xã liên tục phối hợp với bộ đội địa phương chủ động đánh địch. Cuối tháng 10 năm 1953, du kích chủ động phục kích đánh 1 đại đội địa phương quân, giải thoát 300 dân thường bị địch bắt đi lính, nhân dân vô cùng phấn khởi.

Tháng 3 năm 1954, quân địch tiến hành càn quét 35 cuộc quy mô từ 2 trung đội trở lên trên địa bàn huyện Yên Khánh. Riêng khu vực xã Khánh Hòa có tới hàng chục trận càn, chúng lùng sục bắt người, cướp của. Không để cho địch hung hăng đánh phá, quân dân trong huyện, quân dân Khánh Hòa tăng cường đấu tranh. Nằm ven trục đường 10, du kích phát huy lợi thế ven đường thường xuyên liên tục đánh chông, mìn trên trục đường 10 và đường xương cá, làm chủ đoạn đường thuộc địa bàn xã.

Những tháng đầu năm 1954, quân địch càn quét quyết liệt. Quân dân du kích xã Khánh Hòa vừa sẵn sàng đánh địch vừa tiếp tục khai hoang, phục hoá đẩy mạnh sản xuất. Nhân dân đấu tranh buộc địch ở đồn chùa Cao chấp nhận để nhân dân đắp đê sông Đáy bảo vệ mùa màng. Tính từ 1/10/1953 đến tháng 1 năm 1954, mỗi ngày có hàng trăm người tham gia đào ngòi, nạo vét bồi trúc đoạn đê từ cống Kem (Yên Vệ) đến giáp chùa Cao (Khánh Cư) dài trên 3.000m.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ năm 1945 đến năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của chi bộ quân dân xã Khánh Hòa phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết chiến đấu bảo vệ quê hương, góp phần bảo vệ nền độc lập dân tộc, trong kháng chiến xã Khánh Hòa đã có hàng trăm đồng chí được đứng trong hàng ngũ của Đảng và trực tiếp lãnh đạo, đi đầu trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược du kích Phương Du, Yên Khang là đơn vị mạnh của xã Khánh Hòa, chiến đấu dũng cảm, đánh nhiều trận lập nhiều thành tích. Nhiều chiến sỹ du kích nữ hăng hái trong phục vụ chiến đấu và chiến đấu như đồng chí Trao, Thuận, Thông, Xuyên, Tược, Búp, Lộc, Tái... Nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh ngay trên mảnh đất quê hương, như đồng chí Phạm Như Xuân, Phạm Văn Nhỡn, Vũ Văn Kinh, Trịnh Văn Bường, Phạm Văn Nhạc, Phạm Văn Sửu, Phạm Văn Quán…nhân dân Phương Du, Yên Khang đã đóng góp hàng trăm tấn thóc, hàng chục ngàn ngày công, hàng trăm gia đình tham gia hưởng ứng và đóng góp cho phong trào “Hội mẹ chiến sỹ”, “áo ấm mùa đông binh sĩ”, nhiều chăn màn áo ấm được gửi ra chiến trường, nhiều gia đình, cá nhân hết lòng ủng hộ kháng chiến, kiến quốc; tiễn đưa 96 thanh niên tòng quân ra tiền tuyến đánh giặc, hàng ngàn thanh niên, cụ già, phụ nữ tham gia dân quân, du kích, tự vệ trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu. cán bộ, đảng viên kiên trì trụ bám, bám đất, bám dân lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi. Sẵn sàng hy sinh, khắc phục khó khăn gian khổ tận tuỵ, lăn lộn trong phong trào kể cả trong những tháng, ngày quê hương chìm trong khói lửa, đàn áp khủng bố của quân thù; các chiến sỹ cộng sản Phương Du, Yên Khang là những tấm gương hình thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng nơi đây, tiêu biểu là các đồng chí Phạm Quang Bình, Bùi Xuân Hoa, Vũ Văn Viết, Phạm Văn Giác, Vũ Thị Hạt,  Phạm Thị Nê, Nguyễn Duy Thám, Nguyễn Văn Diệp, Lê Văn Ái, Trịnh Văn Trì, Vũ Thị Cánh, Phạm Văn Nhẫn, Đồng Văn Cử, Phạm Văn Nhơi, Phạm Văn Thế, Vũ Văn Luyến…

Nhân dân xã Khánh Hòa, những con người bình dị, cần cù, chịu khó, lao động sáng tạo, kiên trung trong chiến đấu, vượt qua mọi khó khăn, gian lao thử thách. Vượt lên những mất mát, hy sinh để chiến đấu, chiến thắng, lập nên những chiến công hiển hách góp phần xứng đáng vào chiến thắng giải phóng quê hương Yên Khánh, giải phóng Ninh Bình (6/1954), góp phần đánh thắng hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược.

CHƯƠNG III

XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CHỐNG MỸ,  CỨU NƯỚC

(1954 -1975)

I. Khôi phục kinh tế, hoàn thành cải cách ruộng đất (1954-1957)

Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954) buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Bắc Việt Nam. Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thống nhất nước nhà. Miền Bắc giải phóng, nhưng hậu quả chiến tranh để lại hết sức nặng nề, kinh tế miền Bắc vốn đã lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nên càng tiêu điều, xác xơ. Trên mảnh đất Khánh Hòa, thực dân Pháp càn đi quét lại, hố bom đạn chi chít, ruộng đồng bỏ hoang, kênh mương bị tàn phá, nhiều trâu bò bị địch bắt và giết, nông cụ, sức kéo thiếu nghiêm trọng, kỹ thuật canh tác lạc hậu, đời sống nhân dân thấp kém, các thế lực thù địch, bọn tay sai vẫn chưa từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng. Cùng với cơ sở vật chất thiếu thốn, đội ngũ cán bộ vừa trải qua một cuộc kháng chiến trường kỳ, chưa có thời gian học tập, nâng cao trình độ, năng lực, thực tiễn còn nhiều yếu kém, trình độ lý luận còn hạn chế. Nhân dân còn mang nặng một tập quán làm ăn lạc hậu, hủ tục lạc hậu, hệ tư tưởng phong kiến chứa đựng nặng nề trong nhận thức của nông dân.

Tuy nhiên, hoà bình lập lại, quê hương được giải phóng, mang lại niềm vui to lớn cho nhân dân. Nhân dân được làm chủ phấn khởi hăng hái lao động, sản xuất xây dựng chế độ mới.

Hưởng ứng phong trào thi đua khai hoang phục hoá do Huyện uỷ phát động (7/1954) dưới sự lãnh đạo của chi bộ, cán bộ, đảng viên, nhân dân trong xã hăng hái ra quân. Trên khắp cánh đồng Khánh Hòa cờ đỏ tung bay, hàng nghìn người hăng hái thi đua lao động, khí thế lao động của nhân dân sôi nổi. Đến cuối năm 1954, xã Khánh Hòa sửa chữa, đào đắp được 5.000 m kênh mương phục vụ sản xuất nông nghiệp. Do có kênh mương thông suốt, hàng trăm mẫu ruộng được khai hoang phục hoá; hố bom, hố đạn, được san lấp, đồng ruộng bằng phẳng. Nông nghiệp dần dần được khôi phục, năng suất lúa, màu được nâng lên, đời sống nhân dân ngày càng ổn định. Cùng với đẩy mạnh sản xuất trồng trọt, chi bộ đẩy mạnh phong trào phát triển chăn nuôi gia cầm, gia súc, nhất là chăn nuôi trâu bò để tăng sức kéo và sinh sản. Đến tháng 12 năm 1954, xã Khánh Hòa khôi phục được một số trâu bò cày kéo, trâu bò sinh sản giải quyết cơ bản được tình trạng thiếu sức kéo.

 Trong khi nhân dân đang tập trung khắc phục khó khăn hậu do hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại thì bọn phản động ngấm ngầm tập hợp lực lượng chống phá lại chính quyền dân chủ nhân dân, chống phá công cuộc xây dựng chế độ mới. Tháng 7 năm 1954, đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm đã mở chiến dịch tuyên truyền dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào, nhất là đồng bào theo đạo Công giáo di cư vào Nam. Chúng tung tin “Cộng sản triệt đạo” “Việt Minh sẽ trả thù kháng chiến ” “Chúa đã vào Nam’, “Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc Việt Nam”. Trước sự tuyên truyền rùm beng của bọn xấu, nhiều giáo dân hoang mang. Cùng với các thủ đoạn tâm lý chiến. Chúng dùng bọn tay sai côn đồ, đánh đập nhân dân, phá hoại sản xuất….để cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam.

Trước tình hình trên, ngay từ quý III năm 1954 Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 91 về “Tiếp quản vùng mới giải phóng” và “Chống địch dụ dỗ cưỡng ép đồng bào vào Nam” Thực hiện chỉ thị Trung ương Đảng, Huyện uỷ Yên Khánh  phát động “tháng đoàn kết lương giáo chống địch dụ dỗ cưỡng ép di cư”. Chi bộ Đảng xã mở đợt học tập tới các đảng viên, cán bộ xã, đoàn thể quần chúng đẩy mạnh tuyên truyền mạnh mẽ trong nhân dân, lên án tố cáo âm mưu phá hoại chia rẽ đồng bào lương giáo của bọn Mỹ - Diệm. Kết quả, nhân dân nhận thấy trò lừa bịp, xuyên tạc sự thật của bọn việt gian, đoàn kết gắn bó xây dựng quê hương.

Tháng 11 năm 1954, các trại tập trung đồng bào di cư ở Phát Diệm bị giải tán, được sự chỉ đạo của huyện uỷ, chi bộ cùng Uỷ ban kháng chiến hành chính xã xây dựng kế hoạch, chỉ đạo các đoàn thể tiếp quản, động viên, tạo điều kiện để các gia đình trở về làm ăn sinh sống hoà hợp trong cộng đồng làng xóm.

Song song với lãnh đạo chống địch dụ dỗ, cưỡng ép di cư, chi bộ tập trung lãnh đạo phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân. Mặc dù khôi phục kinh tế trong hoàn cảnh, điều kiện vô cùng khó khăn nhưng chi bộ đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp đúng đắn, đáp ứng yêu cầu cấp thiết, mong mỏi của nhân dân. Nhân dân kể cả những người lầm đường lạc lối, nay về với xóm làng được giảm tô, giảm tức, được cấp ruộng hăng hái lao động xây dựng quê hương.

Nhằm khắc phục nạn đói, ổn định đời sống nhân dân, huyện uỷ tổ chức quán triệt Chỉ thị ngày 3/11/1954 của Bộ Chính trị về “Chống đói, phòng đói và phục hồi sản xuất”. Đầu năm 1955, cán bộ, đảng viên, nhân dân xã Khánh Hòa phấn khởi ra quân chiến dịch mùa xuân “sản xuất và tiết kiệm”, chiến dịch được phát động từ ngày 3/1 đến 30/8/1955. Kết thúc chiến dịch sản xuất, trồng trọt và chăn nuôi của xã đều phát triển. Quán triệt tinh thần hội nghị ngày 21/5/1955 về công tác thuế của huyện, chi bộ tập trung lãnh đạo các đoàn thể, nhân dân hăng hái thực hiện công tác thuế. Tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập. Sau học tập, cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ tầm quan trọng của công tác thuế vụ hè 1955. Các phong trào cổ động, tuyên truyền được các đoàn thể thực hiện thường xuyên. Đoàn thanh niên, thiếu niên mít tinh cổ động được 15 cuộc, Ban thông tin xã kẻ được 26 khẩu hiệu. Phát thanh 80 lượt, thanh, thiếu niên tham gia cổ động được 280 lượt. Khánh Hòa là một trong 2 xã được huyện đánh giá có phong trào tuyên truyền, cổ động khá. Do sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được ổn định, có phần cải thiện, công tác tuyên truyền tốt, vụ thuế tháng năm 1955 xã Khánh Hòa đã hoàn thành tốt chỉ tiêu giao nộp thuế cho Nhà nước.

Chi bộ tập trung lãnh đạo đẩy mạnh phong trào xóa mù chữ, tiếp tục khắc phục hậu quả “chính sách ngu dân” của thực dân Pháp. Nhân dân Khánh Hòa hăng hái đi học, người biết chữ dạy người không biết chữ, người biết nhiều bảo người biết ít. Phong trào bình dân học vụ được nhân dân hưởng ứng. Mỗi xóm có 3 hoặc 4 lớp học buổi trưa, một lớp buổi tối, mỗi lớp có từ 15 đến 30 người học gồm các lứa tuổi, nhiều gia đình cả 3 thế hệ cùng đến lớp học. Đến cuối năm 1955 xã Khánh Hòa đã xoá mù cho 85% số dân. Bên cạnh đó, chi bộ, Uỷ ban hành chính xã chú trọng củng cố mạng lưới y tế phục vụ sức khỏe nhân dân, xã đã có nhà hộ sinh, kịp thời phục vụ nhân dân, nhiều bệnh xã hội, các bệnh tứ chứng nan y như bệnh tả, lỵ, thương hàn đã được điều trị kịp thời không còn đe doạ sinh mạng người dân. Cái cảnh “đói không cơm, đau không thuốc” ngày một lùi xa trong đời sống nhân dân.

Thực hiện đường lối “cách mạng thổ địa” và khẩu hiệu “người cày có ruộng” giải phóng nhân dân khỏi sự áp bức bóc lột của địa chủ, giảm tô, giảm tức, thiết thực bồi dưỡng sức dân. Từ cuối năm 1955 cuộc cải cách ruộng đất đợt 5 được triển khai ở Khánh Hòa. Tháng 1 năm 1956, các đội cải cách ruộng đất tiến hành tổ chức quần chúng nhân dân đấu tranh với địa chủ. Cán bộ cải cách ruộng đất đi sâu tìm hiểu đời sống nhân dân, thực hiện 3 cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng làm), đội cải cách ruộng đất tuyên truyền phổ biến chính sách ruộng đất, cách làm và hình thức đấu tranh, nhiều tổ chức đoàn thể quần chúng: Nông hội, Phụ nữ, Thanh niên… thường xuyên họp mít tinh hưởng ứng chủ trương của Đảng về cải cách ruộng đất. Các hoạt động “khơi nghèo, gợi khổ” được cán bộ các đoàn thể thường xuyên quan tâm, những tên địa chủ gian ác run sợ trước sự đấu tranh của nông dân, bọn chúng không thể chối cãi trước sự tố cáo, vạch mặt của nhân dân.

Đến tháng 6 năm 1956, cuộc cải cách ruộng đất ở Khánh Hòa kết thúc, xã Khánh Hòa có 20 địa chủ, đã tịch thu hàng trăm mẫu ruộng, nhiều trâu bò nhà cửa và các tài sản khác, cấp phát chia cho dân nghèo. Giai cấp địa chủ bị đánh đổ, quyền chiếm hữu ruộng đất bị xoá bỏ vĩnh viễn, nông dân được giải phóng khỏi áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Ước mơ ngàn đời của người nông dân  có “ruộng cấy, trâu cày” nay đã thành hiện thực. Nhân dân trong xã tưng bừng náo nhiệt, vợ chồng, con cái phấn khởi cầm cờ, cầm thẻ đi nhận ruộng. Sau cải cách ruộng đất, tình đoàn kết nhân dân tạo thành một khối vững chắc, nhiều phong trào xây dựng quê hương mới được đẩy mạnh, các tầng lớp nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, sôi nổi.

Tuy vậy, trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, ta cũng phạm một số sai lầm. Ngay từ tháng 4 năm 1956, Trung ương Đảng đã phát hiện được sai lầm đề ra biện pháp sửa chữa. Ngày 18/7/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào nông thôn và cán bộ nhân dịp cải cách ruộng đất ở miền Bắc căn bản thành công, trong thư Người nhấn mạnh: “Chúng ta cần phát huy thắng lợi đã thu được, đồng thời chúng ta phải cương quyết sửa chữa những sai lầm”. Sai lầm trong cải cách ruộng đất được Trung ương chỉ rõ: “Không giao cho tổ chức Đảng địa phương lãnh đạo, không dựa vào tổ chức cũ; mắc chủ nghĩa thành phần và khuynh hướng trừng phạt, lạm dụng các biện pháp phát động quần chúng; nặng đấu tố nhẹ giáo dục; sai lầm nghiêm trọng nhất là việc chỉnh đốn tổ chức” (chú thích).

Tháng 6 năm 1956, thực hiện chỉ đạo của huyện uỷ về điều chỉnh địa giới các xã. 3 thôn Khang Du, Yên Vệ, Tân An xã Khánh Hòa được tách ra làm 3 xã để phù hợp với thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Khang Du vẫn giữ tên xã là Khánh Hòa gồm hai thôn Phương Du và Yên Khang.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện uỷ Yên Khánh tiến hành sửa sai, Ban sửa sai xã được thành lập đồng chí Bí thư chi bộ xã làm Trưởng ban. Chi bộ, chính quyền xã đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ đúng với chủ trương chỉ đạo của Huyện uỷ. Đến tháng 10 năm 1957 công tác sửa sai ở xã kết thúc, một số đối tượng được hạ thành phần, tài sản trưng thu của các hộ quy sai được hoàn lại. Sau đợt sửa sai cán bộ, đảng viên nhân dân phấn khởi.

Hoàn thành cải cách ruộng đất, nông dân có trâu cày, ruộng cấy phấn khởi, hăng hái dốc lòng dốc sức xây dựng quê hương. Chi bộ đảng lãnh đạo xây dựng tổ đổi công, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp phát triển văn hoá xã hội. Phong trào tổ đổi công được đẩy mạnh, đổi công từng việc, từng vụ; trao đổi kinh nghiệm làm ăn sản xuất; những gia đình ít người lao động đã khắc phục được tình trạng cày, cấy không kịp thời vụ.

Năm 1956,  xã Khánh Hòa đã xây dựng  được 40 tổ đổi công. Thông  qua đổi công tình làng nghĩa xóm được thắt chặt hơn, mối đoàn kết trong thôn xóm ngày càng được củng cố. Sản xuất phát triển đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, phong trào tổ đổi chưa dựa trên nguyên tắc để quần chúng nhân dân tự nguyện tham gia. Do vậy, sau khi đội cải cách rút một số tổ tan rã, các tổ còn lại hoạt động kém hiệu quả.

Trước thực trạng trên, dưới sự chỉ đạo của Huyện uỷ, chi bộ Đảng đã tiến hành đánh giá tình hình, rút kinh nghiệm trong việc xây dựng tổ đổi công cùng với thực hiện Chỉ thị 31 và Thông tri 37 của Trung ương với phương châm tiến bước vững chắc. Chi bộ tổ chức học tập cho cán bộ ngành, giới trong xã, cử cán bộ nông hội, tổ trưởng tổ đổi công về huyện dự lớp tập huấn ngắn ngày. Đồng thời phát động đợt thi đua xây dựng củng cố phong trào tổ đổi công. Kết quả, toàn xã đã xây dựng được 50 tổ đổi công theo tinh thần tự nguyện, phấn khởi, không gò ép. Các tổ đổi công đều có đảng viên phụ trách, làm nòng cốt trong phong trào. Nhờ đó, các hoạt động sản xuất có hiệu quả, năng suất lao động từng bước nâng cao.

Giữa năm 1957, dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, chi bộ xã tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động từ tổ đổi công, đồng thời lãnh đạo tiến hành tổ chức xây dựng HTX. Hưởng ứng và thực hiện phong trào xây dựng HTX, xã Khánh Hòa có 150 lượt cán bộ, đảng viên và 760 quần chúng nhân dân tham gia học tập. Nhân dân hồ hởi phấn khởi bàn bạc sôi nổi về xây dựng tổ đổi công, xây dựng HTX, làm ăn tập thể, làm ăn có đoàn, có đội. Nhận thức sâu sắc về ưu thế của tổ đổi công các xóm ở xã Khánh Hòa đều xây dựng được tổ đổi công, toàn xã đã xây dựng được 18 tổ đổi công. Các tổ đổi công được củng cố nhân dân phấn khởi hăng hái lao động sản xuất giúp nhau về lao động, công cụ sản xuất, những hộ ít lao động được trợ giúp về lao động, hộ nghèo được vay vốn, giống đảm bảo sản xuất kịp thời vụ. Nhờ đó khai hoang phục hoá được thực hiện thuận  lợi,  nhiều  thùng đào,  thùng đấu  được san lấp trồng cấy cây lương  thực;  nhiều thửa ruộng trước đây chỉ cấy 1 vụ nay đã cấy 2 vụ. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, không còn gia đình nào bị đứt bữa. Chi bộ lãnh đạo nhân dân, các tổ đội bắt tay ngay vào công tác thuỷ lợi phục vụ sản xuất.

Nhân dân Khánh Hòa phấn khởi bắt tay ngay vào việc củng cố lực lượng, tăng gia sản xuất. Tích lũy lương thực chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới. Giữa năm 1957, chi bộ xã cùng Uỷ ban hành chính kháng chiến huy động hàng trăm dân công trong xã tham gia đắp đê sông Đáy, sửa chữa, bồi đắp đê sông Vạc. Ngày 6/8/1957, xã huy động 200 dân công đắp đoạn đê sông Đáy bị vỡ 50 m. Xây dựng cống Yên Vệ, Yên Xuyên, Phương Du, làm đường khuyến nông, thông cừ thoát nước. Đào 3 ngòi Yên Vệ, Yên Xuyên, Hào Phú dài 5.000m phục vụ sản xuất. Thực hiện nhiệm vụ huyện giao, xã Khánh Hòa xúc tiến khởi công và hoàn thành cống Yên Khang trong tháng 4 và tháng 5 năm 1957, Khánh Hòa đã cử 500 dân công tham gia đắp đê sông Đáy góp phần vào thành tích chung của huyện, đắp đoạn đê dài 9 km với 54.843 m3.

II. Cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa (1958-1960)

Nắm vững quan điểm, đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng, cán bộ, đảng viên xã Khánh Hòa nhận thức sâu sắc: Chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giải quyết triệt để tận gốc mọi cơ sở kinh tế - xã hội và nguyên nhân dẫn đến tình trạng “người bóc lột người”, cải tạo các thành phần kinh tế cá thể, tư nhân theo hướng xã hội chủ nghĩa đưa nông dân, thợ thủ công, tiểu thương vào làm ăn tập thể. Thực hiện sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là một cuộc đấu tranh phức tạp để phân định “ai thắng ai” giữa 2 con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.

Năm 1958, chi bộ và nhân dân Khánh Hòa tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng ta lãnh đạo đã hoàn thành, nông dân được giải phóng và làm chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá. Tuy vậy còn nhiều khó khăn, phức tạp, nông nghiệp lạc hậu, thiên tai liên miên, nghề phụ chưa phát triển, đời sống nhân dân trong xã còn khó khăn. Bên cạnh đó bọn phản động vẫn ngấm ngầm hoạt động phá hoại, kích động lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin chống lại chủ trương của Đảng và Chính phủ.

Tháng 8 năm 1958, Huyện ủy, Uỷ ban hành chính huyện tổ chức Đại hội đại biểu nhân dân toàn huyện gồm những người lao động sản xuất tiêu biểu, tổ đổi công xuất sắc, chiến sỹ thi đua nông nghiệp, lực lượng vũ trang nhân dân địa phương… Hội nghị tổng kết phong trào đổi công và sản xuất nông nghiệp năm 1957. Triển khai kế hoạch 3 năm cải tạo chủ nghĩa xã hội (1958-1960). Sau hội nghị, chi bộ xã đẩy mạnh phong trào cải tạo và xây dựng quê hương mới. Đặc biệt chi bộ quán triệt Chỉ thị số 70 của Trung ương Đảng và các chỉ thị của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ về cuộc vận động cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Cuối năm 1959, xã Khánh Hòa đã xây dựng được 2 HTX điểm về nông nghiệp: HTX Hồng Đông (xóm Đông) có 30 hộ do đồng chí Phạm Văn Cứ làm Chủ nhiệm và HTX Hưng Hoà (xóm Thuần Đầu) có 27 hộ do đồng chí Vũ Văn Luyến làm Chủ nhiệm. Từ 2 HTX điểm, chi bộ, Uỷ ban hành chính xã rút kinh nghiệm chỉ đạo thành lập các HTX tiếp theo. Quán triệt tinh thần “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, 100% số đảng viên trong chi bộ gương mẫu vào HTX. Trước khí thế sôi nổi, phong trào xây dựng HTX địa phương phát triển, bọn phản động ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bọn chúng bịa đặt “vào HTX là đi theo Cộng sản, mọi thứ là của chung” bị ảnh hưởng tư tưởng xấu tác động, một số xã viên nhẹ dạ cả tin hoang mang xin ra HTX, có hộ mới vào HTX được 6 tháng đã ra. Chi bộ Đảng đã lãnh đạo sát sao, kiên quyết đấu tranh với những luận điệu phản động, xuyên tạc của bọn người xấu. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên ra quân mạnh mẽ bám sát quần chúng tuyên truyền đường lối xây dựng xã hội mới cho nhân dân hiểu rõ; bác bỏ các luận điệu xuyên tạc của bọn phản động. Do công tác tuyên truyền tốt đến cuối năm 1959 phong trào HTX Khánh Hoà phát triển khá mạnh, hơn 80% nông dân và 85% diện tích canh tác được đưa vào HTX nông nghiệp. Cùng với xây dựng HTX nông nghiệp, chi bộ đẩy mạnh công tác xây dựng 3 ngọn cờ hồng; “Hợp tác xã nông nghiệp, Hợp tác xã mua bán, Hợp tác xã tín dụng” có 85% đảng viên và 60% nông dân vào HTX mua bán và HTX tín dụng. Quan hệ sản xuất mới được thiết lập, sức sản xuất được phát triển, năng suất lao động ngày một nâng cao, đời sống nhân dân ngày được cải thiện, nhân dân phấn khởi, hăng hái với công việc tập thể. Cùng với chú trọng phát triển sản xuất cây trồng, chi bộ quan tâm đẩy mạnh khuyến khích chăn nuôi, coi trồng trọt, chăn nuôi là 2 ngành sản xuất chính.

Đi vào thực hiện kế hoạch 3 năm, xã Khánh Hòa có những thuận lợi cơ bản, đồng thời cũng không ít khó khăn. Công tác sửa sai căn bản hoàn thành, tư tưởng nhân dân ổn định, phấn khởi sản xuất, hăng hái trong mọi công việc. Năm 1958, thiên tai hạn hán kéo dài, thiếu nước, thiếu sức kéo. Mặt khác bọn phản động tuyên truyền xuyên tạc chính sách cải cách ruộng đất đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình thực hiện kế hoạch.

         Để thực hiện thắng lợi kế hoạch 3 năm, ngay từ tháng 12 năm 1957, Huyện uỷ đã ra  Chỉ thị về việc đắp  bờ giữ nước, cấy chiêm. Chỉ thị nêu rõ: “Tình hình vừa qua lúa màu bị hạn, thu hoạch kém, lại tốn kém sức người, sức của của nhân dân trong việc không giữ nước để sản xuất. Huyện yêu cầu các xã phải có kế hoạch xây dựng bảo đảm đủ nước hoàn thành cấy hết diện tích, tăng vụ”. Thực hiện Chỉ thị của Huyện uỷ, xã Khánh Hòa mở hội nghị quán triệt cho cán bộ, đảng viên, động viên nhân dân hăng hái tham gia, khắc phục khó khăn, thi đua sản xuất, thực hiện kế hoạch 3 năm, khắc phục nạn đói do mùa màng thất bát. Do có phong trào đổi công, hợp tác xã nhân dân giúp nhau trong lao động sản xuất đã khắc phục được những khó khăn thiếu lao động, thiếu sức kéo, sản xuất kịp thời vụ. Nhờ vậy Khánh Hoà cấy tăng được 30 mẫu (có 10 mẫu khai hoang phục hóa).

Năng suất lúa bình quân chung toàn xã là 523 kg/mẫu, so với huyện giao đạt 120%, vụ này bình quân lương thực đầu người đạt 300 kg. Nhờ sản xuất vụ mùa phát triển, năng suất cao, công tác thu thuế của năm đạt 100%.

Thực hiện Nghị quyết 14 Trung ương Đảng về bổ túc văn hoá, Nghị quyết chỉ rõ: “Vấn đề bổ túc văn hoá đã trở thành công tác có ý nghĩa chính trị trọng đại trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Bên cạnh khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, chi bộ tăng cường tuyên truyền đẩy mạnh công tác bổ túc văn hoá, nhằm triệt để xoá nạn mù chữ trong nhân dân. Xã Khánh Hòa thực hiện nhiều biện pháp để khuyến kích nhân dân học tập. Trong thôn xóm đặt nhiều trạm hỏi chữ, ai đọc được chữ thì đi đường tốt, ai không đọc được thì đi đường xấu…, nhân dân thi đua học tập, Xã Khánh Hòa đã có 90% số dân đi học. Xã được Chính phủ tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba, nhiều cán bộ làm công tác bổ túc văn hoá được ghi công, tặng huy hiệu.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV, chi bộ Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện phương hướng, nhiệm vụ do Đại hội Đảng bộ huyện đề ra: “đẩy mạnh phong trào tổ đổi công, xây dựng HTX nông nghiệp, mua bán, tín dụng. Đẩy mạnh chiến dịch Đông Xuân 1958-1959 thắng lợi; chuẩn bị thi hành luật nghĩa vụ quân sự….”

Năm 1959, năm bản lề quyết định đến việc hoàn thành kế hoạch 3 năm. Chi bộ xã Khánh Hòa nhận rõ tầm quan trọng của giai đoạn cách mạng hiện tại, tập trung lãnh đạo nhân dân ra sức cải tạo và phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần. Trước hết giải quyết tốt tư tưởng bi quan về khó khăn trước mắt, nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân, động viên tinh thần thi đua sôi nổi, giải quyết tư tưởng ngại khó; phát động quần chúng căm thù Mỹ- Diệm. Phát động phong trào đấu tranh ủng hộ đồng bào miền Nam, đấu tranh chống luật 10/59 của Mỹ - Diệm lê máy chém khắp nơi giết hại đồng bào. Nhân dân Khánh Hòa biến căm thù thành hành động, quyên góp được 450 kg gạo ủng hộ đồng bào Phú Lợi bị Mỹ Diệm thảm sát. Sự lãnh đạo kịp thời của chi bộ, tinh thần cố gắng của nhân dân, Khánh Hoà ra quân thi đua sản xuất, trước hết dồn sức làm thuỷ lợi. Thời gian này cánh đồng Khánh Hòa rợp cờ và biểu ngữ. Tiếng loa phát thanh của đội thông tin biểu dương cá nhân, tập thể hăng say lao động, đạt năng suất cao được phát tin liên tục, khí thế ra quân làm thủy lợi, nạo vét kênh mương, đào mương mới đã thu hút gần ngàn lao động gồm các lứa tuổi tham gia.

Do làm thuỷ lợi tốt, xã Khánh Hòa giải quyết được hàng trăm mẫu lúa, màu bị hạn. Năng suất lúa vụ chiêm đạt 525 kg/mẫu. Đến cuối năm 1959, Khánh Hòa là một trong 12 xã vượt chỉ tiêu kế hoạch huyện giao. Cố gắng của nhân dân Khánh Hòa đã góp vào thành tích chung của huyện. Tại hội nghị thi đua ở tỉnh, huyện Yên Khánh được tặng cờ thi đua khá nhất toàn tỉnh về công tác thuỷ lợi.

Song song với việc cải tạo và phát triển kinh tế, chi bộ tập trung lãnh đạo phát triển giáo dục, văn hoá, quyết tâm bảo đảm chỉ tiêu phổ cập hết cấp 1 cho toàn dân trong xã. Kết quả, chất lượng giảng dạy giáo dục phổ thông được nâng cao, sỹ số bảo đảm. Đến hết năm 1959 xã Khánh Hòa có 1 trường cấp 1, 3 lớp vỡ lòng. Tổng số có 195 học sinh. Kinh phí đầu tư cho đóng mới bàn ghế là 10.890 đồng, một nửa kinh phí là do nhân dân đóng góp.

Bên cạnh tập trung phát triển giáo dục, chi bộ chú trọng tuyên truyền vận động nhân dân tham gia đọc sách báo. Xã Khánh Hòa mở đợt vận động bài trừ mê tín dị đoan, chống văn hoá nô dịch. Chính quyền xã đã đưa những người hành nghề mê tín dị đoan về huyện học tập nhằm cải tạo tư tưởng cho người hành nghề này.

Về y tế, xã đã thực hiện tốt công tác vệ sinh phòng bệnh, vận động nhân dân sửa chữa ao hồ, giếng nước ăn, làm hố xí hợp vệ sinh, nhà tắm, nhà ở. Xã xây dựng được nhà y tế, có phòng hộ sinh. Từ khi có trạm y tế xã, nhân dân phấn khởi được khám và chữa bệnh kịp thời. Khắc phục được những dịch bệnh nguy hiểm.

Cùng với lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, chi bộ tập trung lãnh đạo chỉ đạo xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang. Đầu năm 1959 hội nghị Huyện uỷ đã xác định: “lực lượng bảo vệ hoà bình không chỉ riêng quân thường trực mà phải cả dân quân tự vệ lớn mạnh, mọi người thấy rõ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của mình và tham gia xây dựng quân dân và quân thường trực”.

Thực hiện chủ trương xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, chi bộ tập trung lãnh đạo lấy thanh niên, hội viên, các đoàn thể làm nòng cốt, xây dựng lực lượng, xã Khánh Hòa tổ chức cho nhân dân học tập nghị quyết của Huyện uỷ, nhiều cụ già cũng tham gia học tập. Số người học tập lên tới hàng ngàn lượt người. Tháng 12 năm 1959, chi bộ tổ chức học tập nghị quyết của Huyện uỷ về việc biên chế dân quân trong các HTX, lực lượng thanh niên, dân quân trong xã học tập 3 tài liệu: Luật nghĩa vụ quân sự, biên chế dân quân trong các HTX, công tác tuyển quân. Sau đợt học tập, xã Khánh Hòa xây dựng mỗi hợp tác xã có một trung đội dân quân. Mỗi trung đội dân quân có từ 25 đến 30 người, các trung đội dân quân vừa tích cực học tập, vừa đi đầu trong lao động sản xuất, luyện tập thể thao. Xã Khánh Hòa tổ chức 2 trung đội dân quân 1 và 2 trung đội dân quân 2, tổng số dân quân du kích lên tới 115 người. Hoàn thành tốt chỉ tiêu giao quân năm 1958 và năm 1959, năm 1959 có 14 thanh niên nhập ngũ.

Thực hiện Chỉ thị số 05 của Trung ương Đảng về công tác phát triển Đảng, đặc biệt chú trọng phát triển lớp đảng viên ngày 6/1/1960 - kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng. Chi bộ Khánh Hòa cử 21 quần chúng ưu tú tham dự các lớp bồi dưỡng do huyện mở. Qua thử thách, chi bộ đã kết nạp đựơc 4 đảng viên. Đến cuối năm 1959, chi bộ Khánh Hòa có 75 đảng viên.

Song song với công tác phát triển Đảng, thực hiện chủ trương của Huyện uỷ, chi bộ Khánh Hòa chú trọng công tác chỉnh huấn Đảng, nhằm bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên về tình hình nhiệm vụ mới, nâng cao ý thức pháp luật, xác định chỗ đứng của người đảng viên, cán bộ gương mẫu tiến lên hàng đầu trong giai đoạn mới để củng số phong trào tổ đổi công, hợp tác xã, chuẩn bị cho cao trào Hợp tác xã tiến lên. Được Huyện ủy chỉ đạo, chi bộ đã tổ chức học tập, tuyên truyền rộng rãi về 2 con đường, cử cán bộ đi bồi dưỡng các lớp thông tin ở huyện.

Trong năm, chi bộ đã mở các lớp học tập bồi dưỡng đảng viên trong xã. Huấn luyện bồi dưỡng cho 8 cán bộ đoàn thể ngoài Đảng. Tổ chức cho nhân dân trong các thôn xóm học tập về 2 con đường: Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa. Toàn xã có 85% số người đi nghe, nhất là đợt học tập về ý nghĩa, tầm quan trọng của sản xuất Đông Xuân 1959-1960. Khánh Hòa là một trong 5 xã của huyện có tỷ lệ người đi học tập cao.

Các đợt học tập mang lại nhận thức tốt cho cán bộ, đảng viên, nhân dân. Tạo ra sự chuyển biến tích cực trong hành động. Chỉ trong một thời gian ngắn đã đào đắp được 5 con ngòi, tổng chiều dài 1820m, lực lượng thanh niên, dân quân du kích cùng xã viên làm được 839.620 kg phân xanh, phân bùn, góp phần tích cực vào chăm bón vụ Đông Xuân 1959-1960. Nhân dân phấn khởi, đời sống được cải thiện rõ rệt. Nhận thức về vai trò của tổ đổi công, Hợp tác xã trong nhân dân càng rõ nét, thu nhập và đời sống của xã viên hơn hẳn những người làm ăn riêng lẻ cả về vật chất và tinh thần.

Năm 1960, năm kết thúc kế hoạch 3 năm, có vị trí quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng. Đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật để bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm.

Ngày 18/3/1960, Huyện uỷ ra chỉ thị về việc phát động phong trào thi đua 10 ngày đẩy mạnh sản xuất, lập thành tích  chào mừng  Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ  V.

Hưởng ứng phong trào thi đua do huyện uỷ phát động, cán bộ, đảng viên, nhân dân Khánh Hòa ra quân sôi nổi, đẩy mạnh sản xuất làm hậu thuẫn cho việc củng cố HTX vững mạnh, đồng thời thu hút nông dân tiếp tục vào HTX.

Ngày 1/4/1960, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Yên Khánh lần thứ V khai mạc. Nhân dân nô nức phấn khởi, thi đua lao động sản xuất lập thành tích chào mừng Đại hội đảng bộ huyện và chờ đón chủ trương mới của Đảng. Đại hội Đảng bộ lần này đã chỉ rõ việc củng cố và phát triển HTX, cải tạo công nghiệp. Tổ chức HTX thủ công đi theo con đường làm ăn tập thể.

Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện như luồng sinh khí mới thổi vào mảnh đất, con người Khánh Hòa, làm bùng lên không khí mới thực hiện nhiệm vụ, đầu tư công sức cho con đường làm ăn tập thể.

Đến tháng 4 năm 1960, xã Khánh Hòa xây dựng được thêm 5 HTX ở các  xóm gồm: HTX Thượng Hòa (xóm Thượng), HTX Thanh Xuân (xóm Xuân), HTX Bình Hòa (xóm Rậm), HTX Mạnh Hoà (xóm Ngoại), HTX Trung Hòa (xóm Nội), số hộ 5 HTX đạt 89%  số hộ trong 5 xóm, 100% hộ gia đình đảng viên vào HTX. Như vậy, đến giữa năm 1960, xã Khánh Hòa đã xây dựng được 7 HTX, đạt 100% số xóm xây dựng HTX.

 Chi bộ quan tâm đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng. Năm 1960, chi bộ xã có 80 đảng viên. Chi bộ được Huyện uỷ công nhận là Đảng bộ. Được Huyện uỷ chỉ đạo, đầu năm 1960, Đảng bộ xã Khánh Hòa tiến hành Đại hội Đảng bộ khoá I. Dự đại hội có 80 đảng viên tham dự. Đại hội đánh giá sự lãnh đạo của chi uỷ và chi bộ xã trong việc thực hiện nhiệm vụ  khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, phong trào xây dựng hợp tác hoá, 3 ngọn cờ hồng. Đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Đại hội khẳng định cuộc vận động xây dựng HTX nông nghiệp đã căn bản hoàn thành, thiết lập được quan hệ sản xuất mới, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu. Đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên, có phần được cải thiện.

Các lĩnh vực giáo dục, y tế được coi trọng, phong trào bình dân học vụ được khơi dậy, nạn mù chữ được đẩy lùi, 85% nhân dân biết đọc biết viết, sức khoẻ nhân dân được chăm sóc, bệnh dịch không xẩy ra. Lực lượng vũ trang, dân quân du kích giữ vững, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Đại hội đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng và phát triển Đảng, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Đại hội chỉ rõ những tồn tại yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện xây dựng phát triển kinh tế, nhất là phong trào xây dựng các HTX. Một số cán bộ đảng viên hoạt động còn yếu. Các đoàn thể quần chúng chưa gắn bó, công tác vận động quần chúng, tuyên truyền giáo dục chưa sâu, chưa có kinh nghiệm trong sản xuất, năng suất lao động còn thấp. Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ: Phát triển kinh tế toàn diện, trọng tâm là nông nghiệp; không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Phấn đấu lương thực bình quân đầu người đạt 460 kg/năm (cả thóc và màu). Tiếp tục công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, phấn đấu có 98% nông dân vào HTX, không ngừng đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; nâng cao nhận thức xây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã gồm 9 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Thuyết được bầu làm Bí thư.

Sau đại hội Đảng bộ xã, cán bộ, đảng viên, nhân dân Khánh Hòa bắt tay ngay vào những hành động cụ thể lập thành tích chào mừng thắng lợi của Đại hội. Hội Phụ lão, Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên hăng hái trồng cây xanh khắp nơi. Đảng bộ huy động toàn thể đảng viên, nhân dân ra quân thực hiện chiến dịch Hòn Khoai - Quang Trung thời gian 45 ngày (Từ 11/12/1960 đến 3/2/1961) do huyện phát động. Hàng ngàn cán bộ, đảng viên, nhân dân hăng hái ra công trường làm thuỷ lợi với tinh thần “Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”, khơi mương tát nước. Do công tác chuẩn bị tốt, chỉ trong 10 ngày đầu chiến dịch đã làm được hàng ngàn m3 đất. Nhiều kiện tướng thuỷ lợi xuất hiện, bình quân đạt 5,6m3/ người/ngày (người đạt thành tích cao nhất huyện đạt 9m3/ngày/người).

Hội nghị tổng kết 3 năm làm công tác thuỷ lợi (1958-1960) của huyện, xã Khánh Hòa là một trong 11 xã của huyện vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao.

III. Đảng bộ lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)

Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), xã Khánh Hòa có những thuận lợi cơ bản, trong 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa đã rút ra kinh nghiệm bước đầu trong tổ chức thực hiện. Trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội tạo ra được những bước phát triển đáng kể, đời sống nhân dân được cải thiện, xã hội, văn hoá phát triển. Quan hệ sản xuất mới được xây dựng và củng cố, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, với chính quyền địa phương nâng cao.

Tuy nhiên, Khánh Hòa bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm có những khó khăn, trình độ quản lý kinh tế - xã hội của đội ngũ cán bộ còn non yếu chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Trong sản xuất độc canh cây lúa, trình độ sản xuất hạn chế, năng suất cây trồng thấp, chăn nuôi chưa phát triển đồng bộ với trồng trọt, đời sống nhân dân còn khó khăn.

Tháng 8 năm 1961, Đảng bộ xã Khánh Hòa tiến hành Đại hội lần thứ II tại trụ sở HTX Thượng Hòa. Đại hội kiểm điểm việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị nhiệm kỳ trước, phát động phong trào thi đua lao động, sản xuất củng cố HTX, cải thiện đời sống nhân dân.

Đại hội tập trung bàn biện pháp khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Huyện uỷ (tháng 1/1961) “Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là củng cố và phát triển HTX, phát triển sản xuất nông nghiệp một cách toàn diện, vững chắc. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp làm cơ sở cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 9 ủy viên. Đồng chí Phạm Quang Bình được bầu làm Bí thư.

Đại hội Đảng bộ thành công, cán bộ, đảng viên, nhân dân phấn khởi bắt tay vào thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng quan hệ sản xuất mới.

Năm 1961, huyện uỷ ra Chỉ thị về củng cố HTX nông nghiệp, chỉ thị nêu rõ “Lấy việc đẩy mạnh sản xuất làm nội dung chủ yếu để củng cố HTX, đồng thời thông qua phát triển sản xuất của HTX nhanh chóng ổn định tư tưởng xã viên, ổn định tổ chức HTX, xây dựng phương hướng và kế hoạch sản xuất tiến tới thực hiện 3 khoán. Củng cố HTX, tạo điều kiện chuẩn bị đưa HTX lên bậc cao”.

Thực hiện Chỉ thị của Huỵên uỷ, nhằm đẩy mạnh phong trào cách mạng,  Đảng uỷ quan tâm xây dựng đội  ngũ cán bộ, cử một số cán bộ đi tập huấn bổ túc văn hoá, nghiệp vụ quản lý, chuyên môn kỹ thuật, đảng bộ phát động phong trào thi đua học tập “Vượt Hoa Tiên, kịp Đại Phong” với 5 mũi tiến công: đẩy mạnh sản xuất vụ mùa, hoàn thành nghĩa vụ lương thực, củng cố và phát triển HTX nông nghiệp, thực hiện 3 khoán trong hợp tác xã, phòng chống bão lụt. Xác định nông nghiệp là mặt trận trọng yếu, Đảng bộ phát động phong trào thi đua “nổi gió Đại Phong” đối với xã viên; “phất cao cờ 3 nhất” đối với dân quân tự vệ. Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), trong điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Bọn phản động hoạt động tuyên truyền phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, tung tin Ngô Đình Diệm “lấp sông bến Hải, tiến quân ra Bắc”; ngấm ngầm tập hợp lực lượng, phá hoại hợp tác xã, kích động nhân dân xuyên tạc đường lối xây dựng hợp tác hoá. Một số nhân dân trong xã bị kích động xin ra HTX. Không để bọn phản động khoét sâu mâu thuẫn trong nhân dân, đảng bộ đẩy mạnh cuộc đấu tranh, cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên, hội viên các đoàn thể quần chúng ra quân tuyên truyền, quán triệt đường lối hợp tác hoá của Đảng. Mặt khác tập trung đầu tư xây dựng thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào đồng ruộng. Tuyên truyền cho nhân dân nhận rõ bộ mặt thật của bọn phản động, do vậy năm 1962, xã Khánh Hòa số dân vào hợp tác xã (HTX) đạt 95%.

Đảng bộ mở đợt học tập quán triệt các Nghị quyết của Trung ương Đảng (Nghị quyết 5,7,8) về cuộc vận động cải tiến quản lý HTX, cải tiến kỹ thuật. Trong đợt học tập, đảng bộ chỉ rõ những mặt còn hạn chế, khuyết điểm yếu kém trong việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất, trong việc xây dựng tổ đổi công hợp tác xã. Thực hiện Nghị quyết của huyện uỷ, các HTX thực hiện 3 quản: Quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài chính, kinh tế. Chủ trương 3 quản được quán triệt trong toàn dân để dân bàn bạc và tham gia thực hiện, tạo sự thống nhất trong nhân dân. Dưới sự chỉ đạo của đảng bộ, các HTX tập trung xây dựng công trình thuỷ lợi, mở rộng nâng cấp mặt đường liên thôn, liên xóm. Thuỷ lợi nội đồng được quan tâm, kênh mương được sửa chữa.

Với tinh thần “HTX là nhà, xã viên là chủ”, xã viên hăng hái cải tiến công cụ lao động ứng dụng vào sản xuất. Phong trào cày trâu đôi, cào cỏ Nghệ An, trục lúa bằng trâu, bò được xã viên áp dụng rộng rãi. Những cải tiến kỹ thuật đã góp phần giải phóng sức lao động của xã viên, nâng cao năng suất lao động. Phong trào lao động tập thể được khơi dậy, sân kho, nhà kho các HTX được xây dựng. Các xóm, thôn thi đua lao động và xây dựng các công trình phúc lợi, cố gắng làm ra sản phẩm đẹp và chất lượng cao. Phong trào xử lý giống “Ba sôi hai lạnh”. Cấy lúa thẳng hàng, cấy dầy, làm phân bùn, phân xanh dấy lên mạnh mẽ. Các chi bộ chú trọng theo dõi đánh giá thi đua, xếp loại các đơn vị, đặc biệt là các HTX nông nghiệp. Do làm tốt công tác quản lý, phong trào từng bước phát triển. Qua hai đợt cải tiến quản lý HTX (vòng 1, vòng 2), nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào chủ trương , đường lối của Đảng. Những nông dân trước đây xin ra HTX nay lại làm đơn xin vào HTX làm ăn tập thể. HTX xây dựng trại nuôi trâu bò, trại nuôi tập thể. Khắc phục tình trạng sản xuất thuần nông, đảng bộ chủ trương đẩy mạnh sản xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thu hút 50% số lao động nông nhàn, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho xã viên.

Đảng bộ chăm lo xây dựng quan hệ sản xuất mới, các HTX được củng cố. Tháng 8 năm 1961, Đảng bộ Khánh Hòa sáp nhập 4 HTX nhỏ thành HTX qui mô lớn hơn. HTX Hồng Đông, Thượng Hòa, Thành Xuân, Bình Hòa hợp thành HTX Thống Nhất, có 8 đội sản xuất do đồng chí Phạm Văn Giác làm Chủ nhiệm. Tháng 8 năm 1964 HTX Hưng Hòa, Trung Hòa, Mạnh Hòa hợp thành HTX Yên Khang có 4 đội sản xuất do đồng chí Trịnh Văn Cát làm chủ nhiệm. Xã viên tích cực hưởng ứng đóng góp cổ phần, giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống. Giá trị ngày công không ngừng được nâng cao, 98% số hộ nông dân vào HTX.

Công tác giáo dục được đảng bộ quan tâm. Trường cấp 1, nhà trẻ mẫu giáo được xây dựng, nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ các cháu. Hàng năm số học sinh trong độ tuổi đến trường đạt 98 đến 100%. Chất lượng học tập được duy trì. Hàng năm học sinh lên lớp đạt từ 85 đến 95%, thi tốt nghiệp đạt từ 90 đến 95%.

Trong 2 năm 1961-1962, Khánh Hòa xây dựng được 4 phòng học trường cấp 1. Thực hiện Nghị quyết số 45 ngày 5/9/1962 của Tỉnh uỷ Ninh Bình, Huyện uỷ Yên Khánh chỉ đạo cuộc vận động “xây dựng đảng bộ, chi bộ 4 tốt, đảng viên 4 tốt”, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng viên. Đảng bộ Khánh Hòa duy trì học tập sinh hoạt chính trị xây dựng đảng bộ, chi bộ 4 tốt, đảng viên 4 tốt. Bồi dưỡng tư tưởng vô sản chống ảnh hưởng tư sản. Xây dựng tinh thần làm chủ tập thể, chí công vô tư, chống quan liêu, lãng phí. Sau học tập đội ngũ cán bộ, đảng viên đã chuyển biến một bước đáng kể về nhận thức và nêu cao trách nhiệm trong công tác.

Thực hiện chủ trương của Huyện uỷ, Khánh Hòa ra sức phát huy những thuận lợi, cơ bản khai thác triệt để tiềm năng, thế mạnh. Quan tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chật kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở địa phương. Lấy sản xuất lương thực, thực phẩm làm chủ yếu, đồng thời khẩn trương đẩy mạnh phát triển cây công nghiệp và chăn nuôi. Bước đầu vào sản xuất vụ chiêm năm 1962, tình hình thời tiết phức tạp, hạn hán kéo dài 5 tháng liền. Bên cạnh đó bọn phản động ra sức chống phá công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, tập trung phá phong trào HTX nông nghiệp. Bọn phản động lợi dụng những sơ hở thiếu sót của ta, lợi dụng lúc ta gặp khó khăn để khoét sâu mâu thuẫn chia rẽ nội bộ nhân dân. Một số nơi trong huyện, trong đó có Khánh Hòa bọn xấu liều lĩnh phá hoại tài sản của HTX, triệt phá sức kéo, chúng lén lút bỏ những mảnh chai thuỷ tinh vỡ vào chuồng trâu, bò của HTX để gây thương vong trâu bò, một số nơi khác dùng thân quyến đe doạ quần chúng ngăn ngừa không cho vào HTX. Do vậy mặc dù đã được học tập, song một số người vẫn dao động, lo lắng, chán nản không thiết tha với công việc tập thể.

Trước thực trạng trên, ngày 29/3/1962, Huyện uỷ ra Nghị quyết số 98 về tăng cường củng cố HTX, Nghị quyết nêu rõ: “Trong 6 tháng đầu năm lấy việc củng cố HTX đã hợp nhất là chủ yếu. Thực hiện tốt 3 quản trong HTX”.

Thực hiện chủ trương của Huyện uỷ, Đảng bộ xã tập trung lãnh đạo tổ chức cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập Nghị quyết 39 Trung ương, Nghị quyết 35 của Tỉnh uỷ về công tác bảo vệ trị an, học tập Nghị quyết 98 của Huyện uỷ về tăng cường củng cố HTX. 96% cán bộ, đảng viên, 85% nhân dân tham gia học tập, đồng thời, học tập tuyên truyền về bảo vệ an ninh tổ quốc, đẩy mạnh xây dựng củng cố HTX, các khẩu hiệu kẻ vẽ khắp nơi. Toàn xã kẻ vẽ được 130 khẩu hiệu các loại.

Do công tác tuyên truyền sâu rộng, nhân dân nhận thức rõ được vai trò của người chủ HTX, thấy rõ âm mưu của bọn phản động, những phần tử xấu phá hoại cách mạng. Từ nhận thức, nhân dân đoàn kết hăng hái tham gia lao động sản xuất,  xây dựng HTX. Diện tích cấy vụ chiêm vượt diện tích so với kế hoạch 15%. Năng suất lúa bình quân đạt 676kg/mẫu, đạt 108,8% so với vụ chiêm năm 1961. Nhằm củng cố vững chắc HTX, tháng 6 năm 1962, Đảng bộ cử một số đồng chí đi đào tạo về quản lý sản xuất, khoa học kỹ thuật sản xuất và tài vụ.

Ngày 2/7/1962, Huyện uỷ ra nghị quyết lãnh đạo sản xuất vụ mùa và lãnh đạo chiến dịch vụ mùa chống Mỹ. Với tinh thần của Nghị quyết chỉ có vượt, không có đạt, tư tưởng chỉ đạo: nắm vững 3 đặc điểm, 3 nhiệm vụ, 7 mũi tiến công. Phát động cấy ruộng tăng sản với các tên: Bạc Liêu, Ngọc Hiển, căm thù Mỹ - Diệm, thành lập đội Lê Quang Vinh... Đảng bộ quyết tâm hành động trên mặt trận sản xuất với chủ đề vì sự nghiệp chống Mỹ: Cấy sâu chống Mỹ, làm phân chống Mỹ…phấn đấu năng suất bình quân đạt 850 kg/mẫu. Đảng bộ thành lập Ban chỉ đạo chiến dịch “Vụ mùa chống Mỹ” do đồng chí Bí thư Đảng bộ làm Chỉ huy trưởng. Phong trào phát triển mạnh, tính đến hết tháng 7 năm 1962, Khánh Hòa đã vượt chỉ tiêu cả năm về các loại cây trồng lúa, khoai, đậu, lạc.

Công tác xây dựng Đảng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Trong năm 1962, Đảng bộ tổ chức thực hiện có hiệu quả 3 cuộc vận động lớn: Học tập Điều lệ Đảng, xây dựng chi bộ tiên tiến, đảng viên gương mẫu, bồi dưỡng chính trị, xây dựng chi bộ 4 tốt. Được học tập, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn tỷ lệ đảng viên kém giảm từ 14,5% năm 1961 còn 8,2% năm 1962. Số đảng viên khá tăng, nhận thức của đảng viên về chủ nghĩa xã hội với phong trào xây dựng HTX tăng.

Quý 4 năm 1962, Đảng bộ xã Khánh Hòa Đại hội lần thứ III tại trụ sở HTX Thượng Hòa, Đại hội kiểm điểm thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu nhiệm kỳ 1961-1962. Đồng thời, đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ tới. Đại hội chỉ rõ 3 vấn đề lớn: “lãnh đạo thực hiện chống tư tưởng hữu khuynh của chủ nghĩa xét lại, chống biểu hiện mất đoàn kết trong nội bộ Đảng; cán bộ, đảng viên tích cực tham gia cuộc vận động cải tiến Hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tăng cường quản lý tài chính kinh tế, chống lãng phí, tham ô; thực hiện tốt phong trào “3 xây, 3 chống”.

Đại hội Đảng bộ nêu rõ nhiệm vụ công tác an ninh quốc phòng trong thời gian tới, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 9 ủy viên. Đồng chí Phạm Đức Truyền được bầu làm Bí thư.

Năm 1963, hạn hán kéo dài gần như cả năm. Cây trồng bị thiếu nước nghiêm trọng, ngô bắp nhỏ, khoai củ bé, thậm chí có nơi không có bắp, khoai không có củ, Trước tình hình hạn hán kéo dài, Huyện uỷ ra nghị quyết chỉ đạo: “Công tác chống hạn là nhiệm vụ trọng tâm, đột xuất của toàn Đảng, toàn dân, là nghĩa vụ của mỗi người. Khẩu hiệu hành động lúc này là: Chống hạn như chống giặc”. Đảng bộ quyết tâm chiến thắng hạn, động viên nhân dân ra sức sản xuất, tích cực chăm bón lúa chiêm, hoa mầu.

Toàn Đảng bộ và nhân dân ra quân khơi sâu mương máng, đào giếng lấy nước, đắp bờ vùng bờ thửa, dùng mọi phương tiện để tát nước. Tát nước đến đâu làm cỏ sục bùn ngay đến đó. Do quyết tâm làm tốt công tác thuỷ lợi, cây trồng, con nuôi duy trì bảo đảm được kế hoạch sản xuất.

Song song với công tác phát triển sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ chú trọng lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm khác. Thực hiện Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 40 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác an ninh quốc phòng trong tình hình mới. Đảng bộ xã Khánh Hòa phát động phong trào toàn dân tham gia đấu tranh chống bọn phản động, chống chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp của địch, cảnh giác cách mạng; tổ chức cho toàn dân học tập, nghiên cứu chỉ thị về bảo vệ an ninh quốc phòng. 95% đảng viên, cán bộ và 85% quần chúng xã viên tham dự học tập. Đảng bộ tổ chức các tổ tuần tra canh gác ban đêm. Tập luyện các hình thức báo động, bắt gián điệp, biệt kích, đánh địch đổ bộ đường không.

Dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, cán bộ, đảng viên, nhân dân Khánh Hoà ra sức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Trong 3 năm từ 1961 - 1963, các nhiệm vụ kinh tế- xã hội Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa đều hoàn thành, có mặt hoàn thành vượt mức, nhất là công tác thuỷ lợi. Năm 1963, tuy có nhiều khó khăn, song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, phong trào phát triển khá toàn diện. Đối với nông nghiệp, năng suất vụ chiêm đạt 501 kg/mẫu, vụ mùa đạt 620kg/mẫu. Bình quân lương thực 20kg/người/tháng. Việc giao nộp nghĩa vụ cho Nhà nước cũng thuận lợi. Thu thuế nông nghiệp đạt 100%, mua thóc của nhân dân đạt 113%, nhập kho rút ngắn thời gian 15 ngày so với năm 1962 sớm hơn 1 tháng. Đảng bộ tổ chức đợt vận động nhân dân điều hoà lương thực tương trợ cho cán bộ neo đơn, già cả, gia đình chính sách, gia đình cán bộ. Tổng số lương thực thu được qua đợt vận động là 782.130 kg.

Dưới ánh sáng Nghị quyết 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), nhân dân Khánh Hòa đoàn kết phấn đấu khắc phục mọi khó khăn thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch có hiệu quả, năng suất cây trồng đều đạt kết quả cao.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện uỷ Yên Khánh, Đảng bộ Khánh Hòa tiếp tục tổ chức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập Nghị quyết 39 của Trung ương Đảng và Nghị quyết 24 của Tỉnh uỷ Ninh Bình về công tác an ninh. Phong trào bảo mật phòng gian, đề cao cảnh giác được thực hiện đều khắp trong các thôn xóm. Do đó xã Khánh Hòa là 1 trong 14 xã của huyện Yên Khánh đạt tiêu chuẩn xã “Yên Phong” (huyện Yên Mô).

Tháng 6 năm 1964, Đảng bộ tổng kết một năm thực hiện cuộc vận động “xây dựng đảng bộ, chi bộ 4 tốt, đảng viên 4 tốt”. Đảng bộ đánh giá đúng kết quả đạt được, đồng thời chỉ rõ những khuyết điểm và nguyên nhân yếu kém. Đề ra biện pháp khắc phục. Sau tổng kết nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao rõ rệt, chuyển biến tốt trong hành động, tiên phong gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ, đi đầu trong các phong trào cách mạng. Tỷ lệ đảng viên kém giảm từ 07,5% xuống còn 4,2%. Số đảng viên khá tăng. Thành phần giai cấp trong đảng 70% là bần nông, 30% trung nông. Nhận thức của đảng viên về chủ nghĩa xã hội, phong trào xây dựng HTX tăng rõ rệt.

Trong sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ phát động toàn dân thực hiện bỏ hái dùng liềm, bừa trâu đôi, thả bèo hoa dâu; quy hoạch thuỷ lợi nội đồng 2 năm (1964-1965); chú trọng công tác quản lý hợp tác xã, Hợp tác xã thực hiện khoán từng vụ, từng việc; đẩy mạnh việc dùng công cụ cải tiến, bỏ cày chìa vôi dùng cày 51, cày bừa trâu đôi, bỏ hái dùng liềm nhờ đó năng suất được nâng cao, năng suất bình quân 700kg/mẫu/vụ (1960 đạt 600kg/mẫu/vụ)

Tháng 3 năm 1964, thực hiện sự chỉ đạo của huyện uỷ, hợp tác xã Thống Nhất được chia tách thành 3 HTX: hợp tác xã Hồng Đông, hợp tác xã Thượng Hòa, hợp tác xã Xuân Bình.

Tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” gây cớ đánh phá miền Bắc nước ta bằng không quân, hải quân. Bộ Chính trị ra Chỉ thị về “tăng cường sẵn sàng chiến đấu, chống mọi âm mưu phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ”. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện uỷ và Ban Chỉ huy quân sự huyện, Đảng bộ Khánh Hòa triển khai các phương án phòng không nhân dân. Uỷ ban hành chính xã phát động nhân dân đào hầm trú ẩn, đào giao thông hào và hố cá nhân công cộng, trồng cây ven đường. Đảng ủy, Uỷ ban hành chính xã chú trọng tập trung củng cố lực lượng dân quân du kích; củng cố các đoàn thể nhân dân thực hiện các nhiệm vụ sản xuất, sẵn sàng chiến đấu bắn máy bay địch.

Công tác phòng không nhân dân được triển khai triệt để. Cán bộ, nhân dân bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ. Công tác đào hầm trú ẩn kết hợp chặt chẽ với việc trồng cây xanh, cây ăn quả nguỵ trang và tập luyện sẵn sàng chiến đấu. Đảng bộ phát động đợt trồng cây tưởng nhớ Nguyễn Văn Trỗi, toàn xã đã trồng được hàng ngàn cây các loại trên tuyến đường 10 và đường thôn xóm. Thành lập 10 tổ trồng cây với 75 người, chủ yếu là những người cao tuổi, xã để 3 mẫu trồng ươm cây. Toàn xã đào đắp được 15 hố chữ chi, 30 đoạn hào dài 100 m nối liền với các hầm trú ẩn, 100 hố cá nhân nơi công cộng dọc các trục đường và những nơi thường tập trung đông người như khu vực chợ, trường học….100% gia đình đào hầm trú ẩn tại gia đình, xã đội đã xây dựng ba đài quan sát trên phạm vi địa bàn.

Từ cuối năm 1964, dân quân vừa sẵn sàng chiến đấu vừa hưởng ứng phong trào: Mỗi người làm việc bằng 2, chiến dịch làm mùa tưởng nhớ Nguyễn Văn Trỗi. Dân quân tự vệ toàn xã tham gia làm được 700 m3 thuỷ lợi, 1000 m3 phân hữu cơ các loại, 50 mẫu bèo hoa dâu, đóng 3 xe cải tiến, 5 cày trâu đôi. Huyện Yên Khánh năm 1964 được công nhận là đơn vị 4 giỏi: Công tác tổ chức giỏi, công tác trị an sẵn sàng chiến đấu giỏi, công tác tuyển quân giỏi, tham gia công tác trọng tâm giỏi, trong đó có sự đóng góp của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa.

         Công tác giáo dục được đảng bộ quan tâm chỉ đạo, chất lượng học tập nâng cao, hoàn thành chỉ tiêu năm học với tỷ lệ cao. Vỡ lòng đạt 121%, mẫu giáo 114%, cấp 1 đạt 104%, thi tốt nghiệp cấp 1 và cấp 2 đạt 89%. Đặc biệt là công tác phổ cập cấp 1 cho thiếu nhi thu được thắng lợi. Xã Khánh Hòa là một trong 5 xã của huyện vượt chỉ tiêu trên giao. Hoàn thành kế hoạch bổ túc văn hoá trước 2 tháng, đạt tỷ lệ 127%. Nhiều gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá mới. Bên cạnh đó, xã Khánh Hòa đã xây dựng được trạm y tế xã, bước đầu kết hợp đông - tây y trong chữa bệnh cho nhân dân.

Quán triệt Nghị quyết của Trung ương Đảng, của Tỉnh uỷ Ninh Bình trước yêu cầu nhiệm vụ mới. Huyện uỷ Yên Khánh xác định: “Đảng bộ và nhân dân trong huyện tập trung mọi cố gắng, chuyển hướng về tư tưởng vừa sản xuất, vừa chiến đấu, chi viện miền Nam với mức cao nhất, cùng nhân dân miền Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ”. Cuối năm 1964, Đảng bộ Khánh Hòa tổ chức Đại hội lần thứ XIII tại trụ sở uỷ ban nhân dân xã. Đại hội chỉ rõ phương châm lãnh đạo của Đảng bộ, thực hiện nhiệm vụ chuyển hướng chiến lược. Vừa sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 9 ủy viên. Đồng chí Lê Văn Hoằng được bầu làm Bí thư.

Sau đại hội, Đảng bộ Khánh Hòa tập trung lãnh đạo củng cố lực lượng vũ trang, trước mắt xây dựng củng cố lực lượng dân quân. Mỗi HTX thành lập 1 trung đội dân quân có từ 25-30 người, thường xuyên luyện tập các phương án chiến đấu bắn máy bay địch, đánh địch tập kích cả đường thuỷ và đường không. phối hợp với bộ đội pháo cao xạ, trên địa bàn xã Khánh Hòa xây dựng 4 trận địa phòng không. Cán bộ, đảng viên, nhân dân chuẩn bị tốt hầm hố đảm bảo sản xuất phải an toàn. Với quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ ngay trận đầu. Đảng bộ phát động phong trào quyết tâm bắn máy bay Mỹ bằng súng bộ binh.

Trong 10 năm (1954-1964), dưới sự lãnh đạo của chi bộ sau đó là đảng bộ, nhân dân Khánh Hòa phát huy truyền thống cách mạng xây dựng quê hương, khắc phục hậu quả chiến tranh, cải tại xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển kinh tế văn hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng bộ xã đã lãnh đạo nhân dân đồng tâm nhất trí, đoàn kết một lòng phấn đấu vượt qua những khó khăn, thách thức, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống.

IV. Vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa đấu tranh chống chiến tranh phá hoại, chi viện miền Nam đấu tranh thống nhất đất nước (1965-1975)

1. Sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội và chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, chi viện miền Nam (1965-1968)

Năm 1965, trên chiến trường miền Nam quân dân ta giành được thắng lợi to lớn, làm phá sản chiến lược“chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ.

Thất bại liên tiếp ở chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ hy vọng cứu vãn tình thế bằng cách dùng không quân, hải quân bắn phá miền Bắc. Trước tình hình cuộc chiến tranh lan rộng ra cả nước, thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo trong đợt “Chỉnh huấn mùa xuân” của Huyện uỷ, cán bộ, đảng viên, nhân dân xã Khánh Hòa nhận thức được trách nhiệm của mình trong tình hình mới. Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, người dân Khánh Hòa phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Thanh niên xã Khánh Hòa hăng hái đi đầu trong các phong trào cách mạng, tình nguyện đăng ký “3 sẵn sàng”, phụ nữ “3 đảm đang”. Các HTX nêu cao khẩu hiệu hành động “Năm tấn thắng Mỹ”, khí thế thi đua của xã hoà trong khí thế sôi động trong huyện.

Năm 1965, có hàng trăm người đăng ký tham gia tập luyện và trực chiến, cảnh giới. Mỗi ngày hàng trăm lượt người trên trận địa đắp ụ pháo, ụ súng. Phong trào luyện tập bắn máy bay bổ nhào bằng súng trường bộ binh diễn ra sôi nổi, lực lượng vũ trang xã tích cực, thường xuyên ra thao trường luyện tập kỹ thuật tác chiến.

Hưởng ứng phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai”, “vì miền Nam ruột thịt” “đoàn kết chống Mỹ cứu nước”. Các hợp tác xã đăng ký phấn đấu đạt năng suất cao 100kg/sào, ngày làm việc thêm giờ, giờ làm thêm việc, tranh thủ làm đêm, do đó trong sản xuất đã xuất hiện nhiều nhân tố mới. Trong ngành trồng trọt cùng với cây lúa, cây công nghiệp được đưa vào sản xuất, số lượng, năng suất cây lạc, thuốc lá, đậu tương đều vượt kế hoạch, đạt 113%, (năm 1964 đạt 120%). Mỗi mẫu canh tác đạt giá trị 397 đồng.

Ngành chăn nuôi phát triển, đàn trâu bò đảm bảo sức kéo, lợn thịt tăng so với năm 1964. Đàn lợn tập thể được củng cố và đầu lợn tăng nhanh. Riêng lợn nái được đầu tư, bảo đảm cho đàn lợn luôn được bổ sung. Do chăn nuôi phát triển và ổn định, mỗi năm xã Khánh Hòa bán cho Nhà nước hàng trăm tấn thịt lợn.

Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh phá hoại, song công tác văn hoá - xã hội vẫn được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo, thúc đẩy phong trào phát triển. Đài truyền thanh của xã được xây dựng, các xóm đều có loa công cộng. Ngành mầm non, trường cấp 1 được xây dựng. Các hợp tác xã đều có túi thuốc, mỗi gia đình có một túi thuốc. Giếng nước sạch toàn xã có thêm 100 cái. Tốc độ phát triển nhanh gấp 3 lần năm 1964. Phong trào luyện tập quân sự, thể thao phát triển, đặc biệt là chạy vũ trang, trong một tháng thi đua chạy về quê anh Trỗi, xã Khánh Hòa đã có 600 lượt người tham gia chạy được 1.000 km do vậy Khánh Hòa là một trong 6 xã được huyện biểu dương.

Năm 1965, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc chúng đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, phao tin đồn nhảm nhằm gây chia rẽ nội bộ nhân dân.

Trong thời gian này, ở Yên Khánh, máy bay địch bay trinh sát thường xuyên cả ngày và đêm từ 2 đến 3 lần, có lần bay thấp từ 400-500 m trên dọc tuyến sông Đáy, đánh phá liên tục. Cuối năm 1965, xã Khánh Hoà huy động 1000 cây tre, gỗ các loại, hàng trăm cân mây, hàng vạn viên gạch để làm hầm trú ẩn, xây hố tránh bom đạn Mỹ, đặc biệt xây dựng các hệ thống giao thông hào, hầm chống tréo (chữ A) ở những nơi công cộng, trường học. Uỷ ban hành chính huy động nhân dân đào và làm nhà hầm cho các lớp học trường cấp I, cấp II bảo đảm an toàn cho học sinh và giáo viên học tập.

Xã Khánh Hòa gần thành phố Ninh Bình và cầu Non Nước. Đây là tuyến giao thông quan trọng Bắc - Nam, nối liền hậu phương với tiền tuyến, do vậy không quân Mỹ ngày đêm trinh sát bay lượn, đánh phá dữ dội. Nhằm chủ động đánh địch, một trận địa pháo cao xạ của bộ đội phòng không được đặt tại khu vực chợ Dầu, hàng trăm lượt người Khánh Hòa tham gia hàng ngàn ngày công đào đắp phục vụ trận địa giúp bộ đội. Nhân dân đã nhường nhà cho bộ đội ở, làm kho đạn, vườn để xe ô tô; thời kỳ này Khánh Hòa còn tiếp nhận một số ban ngành của tỉnh như Ban kinh tế Tỉnh đoàn, Công ty Đường sông, Trường cấp 3, Công ty Lương thực… về sơ tán.

Tinh thần sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa được khơi dậy, cán bộ, đảng viên, nhân dân hăng hái, tham gia với tinh thần cao nhất. Ngày 28 tết năm 1965, Khánh Hòa huy động hàng trăm dân quân du kích đắp ụ pháo ở núi Cánh Diều, thành phố Ninh Bình và lấp hố bom, hàng trăm dân công vận chuyển lúa ở kho Xanh (xã Khánh Thiện). Dân quân và nhân dân Khánh Hòa còn chi viện phục vụ cho trận địa pháo Mả Ải (Ninh Phúc) ụ pháo Đồng Cày (Ninh Sơn); tặng quà 100kg đậu xanh, đậu đen cho bộ đội trận địa pháo cao xạ trên địa bàn. Thường xuyên làm vệ sinh nơi ăn, nghỉ, nạo giếng, thau giếng nước ăn cho bộ đội, cơ quan đóng trên địa bàn xã.

Bước vào năm 1966, miền Nam ngày càng thắng lớn, Mỹ - ngụy điên cuồng đánh phá trong Nam ngoài Bắc. Ngày 14/3/1966, Huyện ủy Yên Khánh ra Nghị quyết số 2-NQ/HU về nhiệm vụ quân sự. Nghị quyết nêu rõ: “Củng cố lực lượng vững chắc, có trình độ chiến kỹ thuật, chủ động bắn rơi máy bay Mỹ từ loạt đạn đầu, đảm bảo trị an, kiên quyết đánh bại chiến tranh phá hoại, làm tròn nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến, làm cho dân quân tự vệ thực hiện tốt 3 quyết tâm: quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược; quyết tâm tiêu diệt mọi kẻ thù, hoàn thành nhiệm vụ bất cứ lúc nào; quyết tâm chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội”. Thực hiện Nghị quyết của Huyện uỷ, Huyện đội Yên Khánh triển khai đợt học tập tới các xã trong huyện. Xã Khánh Hòa huy  động 100% dân quân tự vệ học tập, rèn luyện, xây dựng 2 trận địa trực chiến bắn máy bay Mỹ. Củng cố lực lượng dân quân, du kích, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời chiến, các đồng chí Bí thư chi bộ, Bí thư Đảng bộ đảm nhiệm vai trò Bí thư trung đội và xã đội. Khánh Hòa có 2 trung đội trực chiến tại đê sông Vạc - xóm Thuần Đầu và khu vực Mả Mây xóm Chùa.

Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ngày càng ác liệt tàn bạo, chúng sử dụng máy bay tối tân, hiện đại, bom các loại đánh phá miền Bắc, Ninh Bình, Yên Khánh là nơi không quân Mỹ tập trung oanh tạc. Ngay trên mảnh đất Khánh Hòa, bom đạn giặc Mỹ đã cày xới nơi đây giết hại đồng bào, đốt cháy nhà cửa, đồng ruộng nham nhở hố bom đạn. Ngày 6/8/1966, máy bay Mỹ bắn Rốc két xuống bờ sông Vạc làm vỡ tan bè gỗ luồng, giết chết 1 người (đi bè ở Nam Định). Ngày 22/8/1966, máy bay bắn 3 quả Rốc két xuống nhà dân trong xã, làm chết một số người, trong đó có cả trẻ em. Ngày 3/9/1967, Mỹ đánh bom xuống xóm Thuần Đầu làm chết một số người; ngày 11/2/1968, Mỹ đánh bom xuống cánh đồng chiêm xóm Thuần Đầu làm nhiều người đang sản xuất bị thương.

Đế quốc Mỹ gây nên tội ác dã man, những cảnh tang thương, làng xóm tiêu điều. Quyết không để giặc Mỹ gây tội ác đối với nhân dân, Đảng bộ lãnh đạo huy động lực lượng giải quyết hậu quả chiến tranh; bố phòng phòng không, thường trực chiến đấu, sẵn sàng đánh trả máy bay Mỹ. Huyện uỷ kêu gọi: “Toàn thể cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên, nhân dân đẩy mạnh mọi hoạt động để trả thù cho đồng bào trong huyện vừa bị máy bay Mỹ giết hại”. Bằng quyết tâm và ý chí của mình, biến đau thương thành hành động, nhân dân Khánh Hòa ra sức thi đua lao động, sẵn sàng chiến đấu.

Cuối năm 1966, thực hiện chỉ đạo của Huyện uỷ, đồng thời nhằm đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ chính trị Đảng bộ xã Khánh Hòa tiến hành Đại hội lần thứ XIV tại trụ sở xã. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 ủy viên, đồng chí Lê Xuân Cán được bầu làm Bí thư. Đại hội kêu gọi toàn dân trong xã quyết tâm, hăng hái thi đua lao động sản xuất và biến đau thương thành hành động cụ thể trong sản xuất, chiến đấu. Đảng uỷ tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ, không có gì quý hơn độc lập tự do”. Nhân dân trong xã ghi sâu lòng căm thù giặc Mỹ, nhận rõ trách nhiệm và ý chí quyết tâm chống Mỹ cứu nước, đó là bổn phận của mỗi người. Đảng bộ mở đợt học tập giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, có 700 thanh niên đăng ký: “Làm theo lời Bác”, hàng trăm thanh niên viết đơn tình nguyện xin đi miền Nam chiến đấu đánh Mỹ, đợt giao quân năm 1966 Khánh Hòa vượt chỉ tiêu đạt 110% kế hoạch huyện giao. Toàn xã có 120 thanh niên tình nguyện đi thanh niên xung phong, hàng trăm thanh niên tham gia dân công hoả tuyến. Tháng 4 năm 1966, Đảng uỷ tổ chức nhân dân toàn xã học tập Nghị quyết 115 của Trung ương Đảng về phong trào chống gián điệp, biệt kích, xây dựng phong trào “2 tốt”. Sau đợt học tập 100% các đội đăng ký “2 tốt”, phong trào an ninh được khơi dậy và hoạt động có hiệu quả, xã Khánh Hòa trở thành xã có phong trào khá ở huyện.

Khánh Hòa là trạm (CK14) trung chuyển trong đường dây giao liên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như giai đoạn máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc. Do vậy, mỗi ngày đêm có hàng trăm lượt dân công Khánh Hòa tham gia chuyển tải lương thực, đạn dược, quân trang… từ cảng Ninh Bình - B3, Ninh Phúc, bốc hàng vận chuyển ở cầu Yên đến địa điểm tập kết. Nhân dân bố trí nhà ở cho bộ đội dừng chân ăn nghỉ trên đường vào Nam chiến đấu. Vận chuyển cáng tải thương bệnh binh ra tuyến ngoài an dưỡng và điều trị. Quân dân Khánh Hòa đã đầu tư 1.200 ngày công đào công sự cho bội đội chủ lực, 1.000 ngày công vận chuyển đạn, đắp đường quốc phòng được 5000 m3 , cung cấp 500 bó rào tre, 100 kg dẻ lau pháo. Thường xuyên ủng hộ thực phẩm, rau xanh cho bộ đội chủ lực đóng trên địa bàn làm nhiệm vụ trực chiến. Với quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Đảng bộ, nhân dân xã Khánh Hòa không kể các thế hệ già, trẻ, gái, trai đều ra trận địa phục vụ chiến đấu.

Trên mặt trận sản xuất, mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh lực lượng trẻ, khoẻ đều dồn cho tiền tuyến, vật tư sản xuất khan hiếm, vừa sản xuất vừa phòng tránh máy bay địch đánh phá, song với tinh thần “mỗi người làm việc bằng 2” vì miền Nam ruột thịt, “sản xuất để thắng Mỹ” nhân dân đã tranh thủ từng giờ để sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi, bảo đảm sản xuất ổn định và phát triển, giữ vững năng suất cây trồng.

Năm 1967 là năm chuyển hướng kinh tế từ thời bình sang thời chiến, với phương châm vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu. Ngày 30/3/1967, Huyện uỷ ra Chỉ thị về công tác phòng không nhân dân. Chỉ thị nêu rõ: “để đánh bại đế quốc Mỹ, đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng, chúng ta phải thường xuyên nâng cao cảnh giác làm tốt công tác phòng không nhân dân”… Thực hiện Chỉ thị của Huyện uỷ, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa ra sức ngày đêm đào giao thông hào, đào hầm trú ẩn cho người và cho gia súc, làm nhà hầm cho các lớp học nhà trẻ, mẫu giáo, cấp 1. có 8.150 m giao thông hào nối liền các thôn xóm. Bình quân cứ 10m có 1 hố cá nhân hoặc hầm chữ A. Gia đình cũng có 1 đến 2 hầm chữ A đưa số hầm lên 1.570 chiếc trong toàn xã.

Tháng 5 năm 1967, Đảng bộ Khánh Hòa thực hiện xây dựng các tổ chức đảng 4 tốt. Đẩy mạnh xây dựng xã đoàn 4 tốt, Hội Phụ nữ 3 đảm đang, Phụ lão 3 chăm lo, Thiếu niên, nhi đồng nghìn việc tốt. Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ tập trung lãnh đạo đạt 5 tấn thóc, 2 con lợn (100kg)/1 ha/người. Đảng bộ đẩy mạnh phong trào cải tiến công cụ sản xuất, sử dụng công cụ cải tiến và lao động, sản xuất. Đến tháng 11 năm 1967, đa số nông dân Khánh Hòa đã dùng trục lăn lúa, bỏ hái dùng liềm, sử dụng cào cỏ 64 A. Phong trào giải phóng đôi vai được cán bộ, đảng viên, nhân dân hưởng ứng, tích cực sử dụng xe bò bánh lốp, xe cải tiến, xe thồ… thời điểm này xã Khánh Hòa đã làm được 300 trục lăn lúa, 50 xe cải tiến, 10 xe bò bánh lốp, 70 xe thồ.

Do cải tiến công cụ sản xuất, 72% diện tích đất canh tác được cày bừa trâu đôi cả 2 vụ chiêm và vụ mùa, 97% diện tích cấy dăng dây thẳng hàng. Thành lập đội thuỷ lợi chuyên trách 30 người. Phong trào làm phân xanh, phân bùn ao, bùn sông được đẩy mạnh. Toàn xã làm được 3.000 m3 phân cải tiến, 4350 kg phân xanh, 350m3 phân bùn, 145 mẫu bèo hoa dâu. Nhờ đó năng suất cây trồng tăng nhanh trong những năm 1967-1968, năng suất bình quân 640kg/ mẫu.

2- Chống chiến tranh phá hoại lần thứ 2, dốc sức chi viện miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược (1969-1975)

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết của Huyện uỷ về công tác quân sự (1968): “Công tác xây dựng, công tác dân quân tự vệ năm 1968 phải ra sức tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện bằng được nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện thường xuyên đối với dân quân tự vệ”.

Dân quân tự vệ thực hiện tốt nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Trước mắt tập trung đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc của địch. Thực hiện mỗi chi bộ là một bộ tham mưu trên trận địa chống Mỹ, mỗi cấp uỷ, mỗi đảng viên phải là một dũng sỹ kiên cường đánh Mỹ; mỗi xóm, mỗi hợp tác xã là một pháo đài kiên cố để chống chiến tranh phá hoại và chiến tranh mở rộng. Nghị quyết của Huyện uỷ được Đảng bộ và nhân dân xã Khánh Hòa quán triệt và đi vào cuộc sống. Xã Khánh Hòa thành lập 3 trung đội thanh niên 3 sẵn sàng ở 3 hợp tác xã, có 120 đội viên, 3 trung đội phục vụ chiến đấu với 180 đội viên, 2 trung đội trực chiến, 60 chiến sỹ. Mỗi HTX có trung đội nữ 3 đảm đang tổng số 180 người, mỗi HTX có 1 chi hội phụ lão 3 chăm lo tổng số 150 cụ.

Nhân dân tích cực ủng hộ, tham gia mạnh mẽ phong trào phòng không nhân dân. Công tác bảo vệ trị an kết hợp với sản xuất được thực hiện trong từng xóm, từng làng, từng đội sản xuất. Tinh thần lao động sản xuất trong thời chiến thể hiện rõ nét, dân quân tay cày vai súng, tay cấy lưng súng. Phong trào làm phân bùn, phân xanh, quân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Bình quân mỗi dân quân Khánh Hòa làm được 203m3 phân bùn trong năm. Nhờ có đầu tư áp dụng khoa học, kỹ thuật trong sản xuất, sản xuất Khánh Hòa ổn định, phát triển năng suất cây trồng nâng cao. Năm 1969, hoàn thành nghĩa vụ giao nộp thuế cho nhà nước và nghĩa vụ bán khuyến khích hàng trăm tấn lương thực. Cơ sở phúc lợi được tập trung đầu tư xây dựng, nhà kho, sân phơi, trại chăn nuôi lợn, kênh mương cấp 1, cấp 2 từng bước được hoàn chỉnh phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Phong trào xây dựng đời sống văn hoá mới được nhân dân ủng hộ tham gia mạnh mẽ. Năm 1969, có 100 gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hoá mới, 518 gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá mới. Toàn xã xây dựng được 359 nhà tắm, giếng nước, 520 hố xí hợp vệ sinh. Phong trào xây dựng nông thôn mới, nếp sống mới, con người mới đã thành tiềm thức trong nhân dân xã Khánh Hòa.

Tháng 8 năm 1970, Huyện uỷ chỉ đạo học tập cuộc vận động vòng 3 về công tác thương binh, liệt sỹ. Đảng bộ xã Khánh Hòa tổ chức học tập chuyên đề, trong đó có nội dung bảo vệ hạnh phúc quân nhân, trách nhiệm của hậu phương đối với người đi chiến đấu. Đảng bộ quan tâm đến chị em, phụ nữ, vợ và con liệt sỹ, nhiều vợ quân nhân tham gia công tác xã hội ở địa phương, làm tốt các phong trào thi đua của xã.

Mùa xuân năm 1972, trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ bị thất bại nặng nề, chúng huy động máy bay ồ ạt đánh phá miền Bắc lần thứ 2, đe doạ “Đưa miền Bắc về thời kỳ đồ đá”. Cuối tháng 12 năm 1972, không quân Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược B52 vào Hà Nội, Hải Phòng với quy mô chưa mức độ ác lệt chưa từng có trong lịch sử. Trên địa bàn Ninh Bình và Yên Khánh từng ngày13/4 đến 26/12/1972, đế quốc Mỹ đã huy động 1.177 lần chiếc máy bay đánh phá 535 trận vào 523 mục tiêu trên các trọng điểm giao thông thuỷ, bộ, cầu cống, kho tàng, khu dân cư, tấn công đánh phá 25 mục tiêu quân sự. Mặc dù đế quốc Mỹ có những hành động tàn bạo dã man, song quân dân ta quyết không chịu khuất phục. Vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu. Quân dân Khánh Hòa lập nhiều đài quan sát dọc tuyến đê sông Đáy. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng, nhân dân ta “quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hoà, quyết tâm “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” luôn hoàn thành vượt mức đóng góp sức người, sức của cho miền Nam. Trong 8 năm (1966-1973), Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa đóng góp cho Nhà nước hàng ngàn tấn thóc, hàng trăm tấn thịt lợn. Trong năm 1972, toàn xã huy động hàng ngàn ngày công công đào đắp công sự trận địa tên lửa, trận địa pháo phòng không, trồng cây nguỵ trang….Đào hệ thống giao thông hào trong xã, tổng chiều dài hàng chục km, có 1.500 hố cá nhân và hầm chữ A trên các trục đường trong xã, 100% gia đình có hầm trú ẩn Quảng Bình (Hầm chữ A), nhân dân đan mũ rơm cho học sinh phòng tránh mảnh bom, đạn bảo đảm an toàn cho học sinh.

Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” kết thúc, quân dân ta đánh bại chiến dịch tập kích chiến lược B52 của Mỹ vào thủ đô Hà Nội buộc đế quốc Mỹ phải trở lại đàm phán với ta tại Pari. Ngày 27/1/1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết.

Ngày 15/2/1974, Đảng bộ huyện Yên Khánh tiến hành Đại hội lần thứ XI. Nghị quyết Đại hội chỉ rõ: “Tập trung sức lực cho toàn dân, đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp toàn dân mạnh mẽ… tạo cơ sở vật chất đưa nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”. Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ huyện. Giữa năm 1973, Đảng bộ xã Khánh Hòa tổ chức Đại hội lần thứ XV. Đề ra mục tiêu phương hướng nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 15 ủy viên. Đồng chí Phạm Văn Thợi được bầu làm Bí thư. Đảng bộ, nhân dân xã Khánh Hòa tập trung phát triển kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, khắc phục khó khăn do chiến tranh gây ra. Nhân dân Khánh Hòa thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo của đảng bộ hăng hái thực hiện các nhiệm vụ, hưởng ứng các phong trào phấn đấu thực hiện 3 mục tiêu trong nông nghiệp: 6 tấn thóc, 2,5 con lợn, một lao động/ha gieo trồng. Trước tình hình nhiệm vụ mới, nhân dân toàn xã hăng hái tập trung cải tạo đồng ruộng, sửa chữa hoàn thiện hệ thống kênh mương cấp 1 và cấp 2, cải thiện một bước quan trọng đường giao thông nông thôn. Từ năm 1971, Đảng bộ Khánh Hòa từng bước thực hiện cuộc cách mạng xanh, đưa giống cây trồng có năng suất cao vào sản xuất. Với cuộc cách mạng xanh năng suất lúa Khánh Hòa tăng nhanh. Năm 1971 đạt từ 2,8 tấn/ha lên 3,3 tấn/ha. Năm 1972-1973 năng suất lúa đạt từ 150 kg - 170kg/sào đưa năng suất đạt từ 4 tấn-4,5 tấn/ha. Năm 1974, HTX Đông Thượng đạt 5 tấn/ha. Nhờ năng suất lúa tăng, sản lượng thóc cao, HTX Đông Thượng bán cho Nhà nước 227.800 kg thóc vượt chỉ tiêu 29%. Từ thắng lợi trong sản xuất nông nghiệp của HTX Đông Thượng, đảng bộ rút kinh nghiệm nhân rộng trong toàn xã; Năm 1974-1975 các HTX của Khánh Hòa đều đạt 5 tấn/ha. Do đó, Khánh Hòa hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ của hậu phương đối với tiền tuyến. Bình quân lương thực vẫn đảm bảo 17kg/người/tháng. Đóng góp Nhà nước 2.520 tấn thóc, 1.008 tấn thực phẩm.

Quý I năm 1975, theo yêu cầu chi việc của tiền tuyến, Đảng bộ và nhân dân xã Khánh Hoà đã huy động một lực lượng lớn lương thực, thực phẩm đóng góp chi viện tiền tuyến góp phần vào thành tích chung của huyện Yên Khánh đóng góp hàng ngàn tấn lương thực, 300 tấn thịt lợn. Nhân dân huyện nhà đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm. Cùng với “Dốc sức vì miền Nam” về cơ sở vật chất, Đảng bộ Khánh Hòa tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang sẵn sàng cung cấp nhân lực cho tiền tuyến, sẵn sàng chiến đấu tại chỗ, thời gian này Huyện đội Yên Khánh tổ chức huấn luyện định kỳ đẩy mạnh công tác quân sự địa phương và chi viện cho tiền tuyến. Khánh Hoà đã có 100% số dân quân tự vệ tham gia huấn luyện, đồng thời bổ sung lực lượng cho đơn vị dân quân cơ động, bảo đảm tác chiến theo đúng quy định về chất lượng. Khánh Hòa là một trong những đơn vị làm tốt công tác này, là đơn vị vũ trang mạnh của huyện.

Với tinh thần “tiền tuyến gọi hậu phương sẵn sàng”, “tất cả cho tiền tuyến”, bằng hành động cụ thể trong 2 năm (1973-1974), xã Khánh Hòa đã có 98% số thanh niên từ 18-25 tuổi khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Đợt tuyển quân đầu năm 1975, có 75% thanh niên xã Khánh Hòa lên đường nhập ngũ (so với tổng số thanh niên trong xã).

Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa không những đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến mà còn đáp ứng kịp thời địa điểm sơ tán làm việc cho các cơ quan Đảng, Nhà nước trong huyện, trong tỉnh, đảm bảo bí mật an toàn cho các cơ quan.

Từ năm 1964 đến 1975, xí nghiệp vận tải ô tô Ninh Bình, ty Lao động Ninh Bình sơ tán về xóm Đông. Tỉnh đoàn thanh niên lao động Ninh Bình ở xóm Xuân, xóm Chùa. Trường cấp 2 xã Ninh Phúc (Hoa Lư) ở xóm Thượng, xóm Rậm. Trường Sư phạm mẫu giáo Ninh Bình, Uỷ ban kế hoạch tỉnh về ở xóm Rậm. Ty lương thực Ninh Bình về ở xóm Ngoại. Trường Trung cấp nông nghiệp Ninh Bình, đoàn thuyền vận tải lương thực, ty lương thực về ở xóm Thuần Đầu.

Từ năm 1968-1969, nhân dân Khánh Hòa đón tiếp nuôi dưỡng các con em K8 (Quảng Bình). Binh trạm vận tải ô tô, kho vũ khí, khí tài, đạn dược được xây dựng tập kết tại đền Đông, xóm Đông.

Năm 1969-1971, Khánh Hòa nằm trong đường dây giao liên thuộc binh trạm TK14 từ miền Bắc vào chiến trường Miền Nam đón tiếp và vận chuyển thương bệnh binh ra tuyến an dưỡng điều trị.

Từ năm 1971-1972, công nhân nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình (K3) sơ tán ở xóm Rậm, xóm Thượng.

Năm 1973-1975, sư đoàn bộ 76 pháo phòng không sơ tán về ở khu vực Mả Gạo và xóm Đông, xóm Thượng. Sư đoàn bộ và cán bộ binh quân đoàn B46 về sơ tán ở xóm Chùa, xóm Xuân. Những đơn vị sơ tán được cán bộ, nhân dân nhiệt tình đón tiếp, tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan làm việc, đảm bảo an toàn.

Với tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do”, “vì miền Nam ruột thịt” Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa tích cực trong sản xuất và chiến đấu, phục vụ chiến đấu góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng 30/4/1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

CHƯƠNG IV

XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 - 2000)

 

I. Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội sau chiến tranh (1975-1985)

Ngày 30/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên 20 năm vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chi viện sức người, sức của cho miền Nam chiến đấu chống đế quốc Mỹ thắng lợi, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa thu được nhiều thành tựu trong công cuộc cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Niềm vui thống nhất đất nước, nhân dân được sống trong hoà bình không lâu, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa lại tiếp tục cùng toàn dân tộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc Tổ quốc.

Đất nước thống nhất, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau nhiều năm miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất mới được hình thành, lực lượng sản xuất tuy đã có những bước tiến, phát triển song nền sản xuất chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, điểm xuất phát thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu, vừa yếu, trình độ hạn chế, nhất là quản lý xã hội, quản lý kinh tế. Đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI Đảng bộ huyện (3/1975), Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa đã từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân. Năm 1975, mưa lớn và kéo dài ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp. Ở Yên Khánh lượng mưa từ 1.800-2.300 mm, riêng tháng 8 mưa gần 1000 mm. Mưa lớn nhưng phân bố không đều, đầu năm hạn hán, cuối năm úng lụt. Mưa nhiều kết hợp cơn bão số 5 lại càng làm cho lượng mưa lớn. Ngày 20/8 mưa tới 200-300mm chỉ trong 24 giờ toàn huyện úng ngập 50% diện tích, xã Khánh Hòa úng ngập 45% diện tích. Trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên, Đảng bộ và nhân dân trong xã quyết tâm vượt mọi khó khăn, giành thắng lợi. Toàn dân hăng hái tham gia chống úng lụt bằng mọi phương tiện. Do vậy, trong thời gian ngắn đã khắc phục được úng lụt, đảng bộ tập trung lãnh đạo đầu tư nhiều loại giống mới vào sản xuất, có năng suất cao, 80% diện tích được cấy giống mới đẩy mạnh trồng cây màu, cây có giá trị kinh tế cao.

Đẩy mạnh một bước phát triển nông nghiệp, huyện Yên Khánh thực hiện và phát động chiến dịch Hà - Nam - Ninh ra quân trên mặt trận sản xuất nông nghiệp. Ngày 29/2/1976, Ban Thường vụ Đảng uỷ xã đánh giá rút kinh nghiệm ra quân đợt đầu, quyết định tiếp tục phát động đợt ra quân mạnh mẽ, huy động toàn bộ nhân lực tập trung cho sản xuất, kể cả lực lượng học sinh, cán bộ hưu trí, mất sức đều được huy động. Đảng viên phải đi tiên phong trong chiến dịch, mọi hoạt động lúc này đều nhằm đáp ứng cho sản xuất. Đoàn Thanh niên của xã mở đợt thao diễn năng suất cao. Những ngày này trên cánh đồng xã Khánh Hòa nhộn nhịp, tưng bừng, cờ bay đỏ rực một vùng, Đội xung kích văn nghệ thông tin hoạt động sôi nổi, những bài hát, câu hò động viên nhân dân lao động trên cánh đồng, những lao động tiên tiến được thông báo kịp thời trên công trường khích lệ tinh thần thi đua. Những ngày lao động trong chiến dịch nhiều nhân tố mới xuất hiện, một khí thế lao động trỗi dậy với tinh thần của người làm chủ quê hương đất nước.

Quán triệt Nghị quyết 125/CP của Hội đồng Chính phủ, Quyết định 518 của Tỉnh uỷ Hà Nam Ninh về tăng cường quản lý ruộng đất; Chỉ thị 231 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức lại sản xuất, Đảng bộ xác định thế mạnh của Khánh Hoà là vùng lúa, màu. Đảng bộ coi trọng công tác quản lý và sử dụng đất coi đây là biện pháp quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của xã. Đầu năm 1976, Đảng bộ Khánh Hòa tiến hành cuộc vận động “tăng cường quản lý ruộng đất”, thực hiện cuộc vận động quản lý đất đai, song song với công tác giao thông thuỷ lợi nhằm khai thác triệt để đất đai, chống lãng phí bỏ hoang đất đai. Thực hiện cuộc vận động 95% đảng viên tham gia học tập. Cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức đầy đủ về công tác quản lý đất đai.

Sau khi Cuộc vận động “tăng cường quản lý đất đai” cơ bản hoàn thành, Huyện uỷ chỉ đạo tiếp tục cuộc vận động “Tổ chức lại sản xuất, cải tiến một bước quản lý nông nghiệp...” từ cơ sở, theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Theo tinh thần Chỉ thị 208 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết 61/CP ngày 5/4/1976 của Hội đồng Chính phủ. Đảng bộ huyện Yên Khánh triển khai đợt học tập, nghiên cứu các Nghị quyết 19, 20, 22 của Trung ương Đảng về “Đưa nông nghiệp miền Bắc nước ta tiến lên sản xuất xã hội chủ nghĩa”, trong đó nêu rõ: “Yên Khánh là huyện nông nghiệp, có tiềm năng, thế mạnh về đất đai, kinh nghiệm sản xuất và truyền thống cần cù sáng tạo, năng đông trong lao động của nhân dân là điều kiện thuận lợi”. Thực hiện cuộc vận động, Đảng bộ xã Khánh Hòa khắc phục khó khăn, bám sát nội dung cuộc vận động, khai thác thế mạnh, tiềm năng sẵn có trong nhân dân, tinh thần cần cù sáng tạo của xã viên HTX. Tổ chức lại sản xuất và cải tiến một bước quản lý kinh tế, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, củng cố quan hệ sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển tạo điều kiện áp dụng có hiệu quả khoa học - kỹ thuật và đồng ruộng. Đồng thời, nêu rõ phương hướng nhiệm vụ trong giai đoạn tới: Đảng bộ tập trung lãnh đạo sản xuất, phát triển trồng trọt, chăn nuôi cân đối, từng bước củng cố quan hệ sản xuất mới, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật chú trọng phát triển ngành nghề. Bảo đảm trật tự xã hội, an ninh chính trị xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân vững chắc.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội, Đảng bộ tập trung lãnh đạo toàn dân đẩy mạnh sản xuất phát triển. Kết quả, 2 năm 1975-1976 năng suất lúa bình quân đạt 5 tấn/ha.

Chăn nuôi phát triển, đàn lợn tăng từ 1.300 con (1975) lên 2.100 con (1976) đàn vịt 1.000 con, đàn trâu 174 con, lò gạch, lò ngói được xây dựng thêm mỗi năm ra lò hàng ngàn viên gạch, 15.000.000 viên ngói, ngành nghề phát triển giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động khắc phục thời gian nông nhàn. Nghề phụ phát triển, nông thôn Khánh Hòa từng ngày thay da đổi thịt, đời sống nhân dân nâng lên rõ rệt, ổn định. Công tác tài chính ngân sách hoạt động khá, tạo nguồn thu đảm bảo hoạt động cho xã ổn đinh, bình quân 2 năm (1975-1976) đạt 110% kế hoạch.

Cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ chú trọng nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Toàn xã thành lập 1 trung đội an ninh gồm 25 đồng chí, do đồng chí Phó ban Công an xã, Xã đội phó phụ trách, vừa làm nhiệm vụ tuần tra canh gác, vừa bảo vệ đồng điền. Thành lập Đại đội dân quân 202 làm nhiệm vụ thuỷ lợi, xã đội tập trung huấn luyện học tập cho lực lượng dân quân tự vệ sẵn sàng nhận nhiệm vụ, bảo vệ trật tự trị an thôn xóm. Công tác tuyển quân thực hiện tốt, trong 2 năm (1975-1976) xã Khánh Hòa đạt 110% chỉ tiêu giao quân.

Năm 1976, Đảng bộ xã Khánh Hòa tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ  XVI tại trụ sở xã và quán triệt tư tưởng, chỉ đạo phát huy truyền thống “sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi”.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cán bộ, đảng viên, nhân dân trong xã đoàn kết, đồng tâm hiệp lực, nêu cao tinh thần tự lực tự cường hăng hái tham gia lao động sản xuất, học tập, công tác, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững trật tự an toàn xã hội. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 15 ủy viên, đồng chí Nguyễn Thị Chinh được bầu làm Bí thư.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (12/1976), Nghị quyết 23 (bước 3) và Thông tri 314,315 của Trung ương Đảng, Huyện uỷ Yên Khánh ra Nghị quyết về “tăng cường công tác giữ gìn kỷ luật của Đảng”. Đảng bộ Khánh Hòa tiến hành hai đợt tự phê bình và phê bình trong Đảng, thực hiện bình công, lập công trong Đảng. Đảng uỷ, Ban Thường vụ quan tâm chỉ đạo việc chuẩn bị nhân sự chi uỷ, nhân sự chuẩn bị bầu hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ (1977-1979). Các cuộc sinh hoạt chính trị mang lại hiệu quả rõ rệt, cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, tự rèn luyện bản thân, xây dựng ý thức tự giác hoàn thành nhiệm vụ được giao, thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh trên cả 3 mặt: Chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đảng bộ chú trọng công tác phát triển đảng viên mới, thường xuyên bổ sung lực lượng cho Đảng bộ, toàn đảng bộ có 34 đảng viên dự học lớp sơ cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng cảm tình Đảng cho 16 quần chúng ưu tú. Qua phân loại đảng viên trong Đảng bộ năm 1977 có 25% đảng viên tích cực, 58% số đảng viên trung bình, 17% số đảng viên yếu.

Trên đà thắng lợi, Đảng bộ xã Khánh Hòa quyết tâm thực hiện đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách mạng văn hoá tư tưởng trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt, nhằm thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ngay từ ngày đầu thực hiện nghị quyết, đảng bộ tập trung lãnh đạo phát động phong trào thi đua làm thuỷ lợi nội đồng, lực lượng thanh niên làm nòng cốt, khuyến khích động viên nhân dân hăng hái tham gia.

Thực hiện Quyết định 125/CP ngày 27/4/1977 của Hội đồng Chính phủ, xã Khánh Hòa cùng 9 xã phía bắc huyện Yên Khánh sáp nhập với huyện Yên Mô thành lập huyện Tam Điệp. Trước biến động trong nhận thức của một số người về sự thay đổi đơn vị hành chính, đảng bộ tổ chức quán triệt quán triệt cán bộ, đảng viên xác định rõ trách nhiệm trong công tác, yên tâm lao động, ổn định tư tưởng nhanh chóng hoà nhập với huyện mới, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của đảng bộ xây dựng quê hương giàu đẹp. Thời gian này diễn biến thời tiết phức tạp, năng suất lúa giảm… Tệ phóng công, dong điểm trong các hợp tác xã nông nghiệp, ngành nghề tràn lan. Trong khi đó ý thức lao động của một bộ phận xã viên kém, đi muộn, về sớm, chọn việc dễ, bỏ việc khó chất lượng lao động thấp. Những yếu kém trên dẫn đến năng suất lao động thấp. Năm 1977, thất thu lớn. Giá trị ngày công thấp, bình quân đầu người 7,9 kg thóc/tháng.

Trước tình hình đó, Đảng bộ đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng, lấy chi bộ, đảng viên làm hạt nhân chính trị trong các phong trào của quần chúng. Tăng cường công tác quản lý mọi mặt kết hợp động viên nhân dân trong lao động sản xuất và ý thức làm chủ tập thể.

Năm 1978, Đảng bộ xã Khánh Hòa ổn định mọi mặt, sản xuất kinh doanh có những bước tiến mới, sản xuất trồng trọt tập trung vào 2 cây chủ yếu; cây lúa và cây màu, nhằm phá thế độc canh, đảng bộ tập trung đẩy mạnh sản xuất chăn nuôi, chú trọng chăn nuôi 4 con: lợn, vịt, cá, trâu bò. Đồng thời, khơi dậy phát triển ngành nghề truyền thống, gạch, ngói, thêu ren… Đảng bộ đặc biệt quan tâm công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đề ra biện pháp thực hiện, thay đổi cách thức làm ăn. Coi trọng khâu xây dựng kế hoạch, động viên nhân dân tham gia lao động sản xuất, phát huy tinh thần làm chủ tập thể của xã viên. Động viên quần chúng nhân dân tin tưởng vào đường lối và sự lãnh đạo của Đảng. Đóng góp tốt nhất sức mình vào xây dựng hợp tác xã vững mạnh.

Phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, Đảng bộ và nhân dân toàn xã tiến quân vào mặt trận sản xuất với tinh thần cao nhất. Lĩnh vực trồng trọt  đạt những kết quả khả quan.

Lĩnh vực chăn nuôi đã có bước phát triển mới, duy trì chăn nuôi 4 con (lợn, vịt, trâu bò, cá) điển hình là đàn lợn nái và lợn thịt. Trại chăn nuôi tập thể được giữ vững, luôn duy trì 500 con lợn. Chăn nuôi hộ gia đình cũng được đẩy mạnh, nhất là đàn lợn nái được đầu tư đáng kể. Do chăn nuôi phát triển, Hợp tác xã  bán cho Nhà nước hàng ngàn cân thịt. Sử dụng ao, hồ, ruộng trũng chăn nuôi  vịt đẻ, vịt thịt, thu nhập được 10.000 quả trứng; thu 9 cá tấn trong năm.

Ngành nghề tiểu thủ công cũng có bước chuyển dịch, các ngành chủ yếu được duy trì (sản xuất vật liệu xây dựng, chiếu cói) điển hình là sản xuất vật liệu xây dựng, trong 2 năm các lò gạch sản xuất được 366.190 viên, một lò ngói sản xuất được 3.360 viên, sản xuất 30.000 lá thêu ren. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Khánh Hòa nỗ lực tập trung đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh phát triển khá toàn diện. Tổng giá trị thu nhập đạt 834.409 đồng so năm 1977 (725,321 đồng) tăng 109,088 đồng, bán cho Nhà nước 12 tấn thịt lợn, mức ăn của xã viên tăng từ 7,3kg lên 14 kg vào năm 1978.

Thực hiện Nghị quyết của Huyện uỷ về nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Đảng bộ quán triệt sâu rộng tới cán bộ, đảng viên, nhân dân, lực lượng vũ trang toàn xã về sự cần thiết xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Tập trung lãnh đạo củng cố Ban chỉ huy xã đội, đảm bảo vai trò lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối, toàn diện đối với lực lượng vũ trang, đồng chí Bí thư Đảng uỷ trực tiếp làm chính trị viên xã đội.

Toàn xã thành lập một Đại đội cơ động, một Đại đội 202 vừa làm kinh tế vừa sẵn sàng chiến đấu, chiếm 16% số dân toàn xã. Lực lượng tham gia dân quân, tự vệ thường xuyên được huấn luyện theo các phương án chiến đấu. Đồng thời, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, quan tâm tới các gia đình thương binh liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng. Năm 1979, xã đã hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân.

Năm 1979, sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển toàn diện, sản lượng lương thực tăng hơn năm 1978 trên 100 tấn. Giá trị ngày công lao động, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Tình hình chính trị xã hội ổn định, đời sống văn hoá tiếp tục phát triển, phong trào xây dựng nông thôn mới được đảng bộ, chính quyền, đoàn thể nhân dân chăm lo.

Năm 1980, năm cuối cùng nhiệm kỳ (1979-1980), Đảng bộ lãnh đạo thúc đẩy phong trào xã Khánh Hòa từng bước phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng. Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp phát triển và ổn định, nâng bình quân lương thực lên 15kg thóc/người. Chăn nuôi cũng phát triển đồng đều cả tập thể, gia đình, đàn trâu bò tăng, đàn lợn luôn có từ 2.000-2.500 con. Đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Công tác giáo dục, y tế được quan tâm, phong trào thi đua dạy tốt học tốt được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên, trẻ em trong độ tuổi đến trường 100%... Sức khoẻ nhân dân được chăm sóc. Trong nhiều năm không có dịch bệnh, các gia đình chính sách được cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể quan tâm chu đáo. Bên cạnh đó, trong 3 năm (1978-1980), xã Khánh Hòa có hàng trăm thanh niên nhập ngũ.

Công tác Đảng được củng cố, thường xuyên bảo đảm, giữ vững chất lượng đảng viên. Năm 1980, có 91% đảng viên đạt tiêu chuẩn.

Tháng 8 năm 1979, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) ra Nghị quyết “làm cho sản xuất bung ra”. Tháng 1 năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 100 “về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động” cải tiến một bước về quản lý sản xuất nông nghiệp, mô hình HTX nông nghiệp nhằm tăng lợi ích của người lao động, khuyến khích giải phóng sức sản xuất nông nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân. Chỉ thị số 100 ra đời đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, gắn bó chặt chẽ lao động, công sức và lợi ích đối với người nông dân.

Đảng bộ tổ chức nghiên cứu, quán triệt Chỉ thị số 100 cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhân dân phấn khởi nhận thức rõ trách nhiệm và cơ hội để mỗi người phát huy tốt nhất tinh thần làm chủ, tài năng trí tuệ của mình trong phát triển kinh tế.

Nhờ có Chỉ thị số 100, nhân dân phấn khởi, hăng say sản xuất, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, phát huy được năng lực sản xuất. Trồng trọt phát triển theo hướng thâm canh tăng vụ, mở rộng diện tích. Năng suất mỗi năm đều tăng. Năm 1981, đạt 48 tạ/ha, đầu năm 1983 đạt 56 tạ/ha, năm 1985 đạt 60 tạ/ha/năm. Chăn nuôi phát triển mỗi năm đàn trâu bò tăng từ 18 đến 26 con, duy trì đàn lợn 3.000 con lợn thịt và sinh sản, ngành thảm len luôn đạt 3000 lá hàng năm. Sản xuất vật liệu xây dựng không ngừng phát triển. Ngân sách hoàn thành 100% kế hoạch thu.

Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, cơ sở hạ tầng của xã được thay đổi rõ rệt. Trụ sở xã được xây dựng, các công trình phúc lợi trạm xá, trường học được Đảng bộ quan tâm xây dựng, phát triển, các công trình nguồn thu từ ngân sách xã và quỹ phúc lợi từ HTX đóng góp. Thời gian này, các HTX được củng cố vững chắc, nhà kho sân phơi được xây dựng.

Trung tuần tháng 11 năm 1983, Đảng bộ Khánh Hòa tổ chức quán triệt Nghị quyết 04 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác tư tưởng và văn hoá. Đảng bộ đề ra biện pháp tổ chức thực hiện về nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên trong tình hình mới. Quán triệt Nghị quyết được gắn liền với thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, như công tác thu hồi sản phẩm, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể. HTX mua bán tăng cường phục vụ nhân dân, nhất là mặt hàng thực phẩm, tăng cường công tác quản lí thị trường.

Từ nhận thức của cán bộ, đảng viên. Đảng bộ tổ chức ra quân làm thuỷ lợi, thành lập Ban chỉ đạo chiến dịch gồm 21 thành viên bao gồm chính quyền, đoàn thể, các ngành trong xã, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã làm trưởng  ban. Trong chiến dịch thực hiện 6 mũi: Thu hồi sản phẩm, làm thuỷ lợi, làm mạ, cày ngả, phân bón và công tác lãnh đạo. Chiến dịch được thực hiện trong 40 ngày đêm. Đảng bộ xã quyết định trích 25.000 đồng làm quỹ khen thưởng trong chiến dịch cho những đơn vị đạt 6 mũi tiến công.

Vụ mùa năm 1983, xã Khánh Hòa có 326 ha diện tích trồng cấy, năng suất đạt 28 tạ/ha. Đậu tương hè có 18ha, năng suất đạt 8 tạ/ha. Đậu tương thu 43ha, năng suất đạt 10 tạ/ha. Nông nghiệp trồng trọt và chăn nuôi ổn định, phát triển, đời sống nhân dân ngày một cải thiện. Bình quân mức ăn của xã viên Khánh Hòa đạt 19kg/tháng, cao hơn mức bình quân của huyện 7kg/tháng (bình quân của huyện là 12kg/tháng). Đời sống nâng cao, có thu nhập, nhờ vậy cán bộ, đảng viên, nhân dân Khánh Hòa thi đua, hăng hái tham gia các phong trào đóng góp xây dựng Tổ quốc và các phong trào ủng hộ từ thiện do các đoàn thể phát động. Năm 1983, có 100% các hộ công nhân viên chức, đảng viên tham gia mua công trái xây dựng Tổ quốc (bằng thóc là 20 tấn, bằng tiền là 161.600 triệu đồng), Khánh Hòa là xã trong nhóm mua công trái đứng đầu huyện.

Từ năm 1981-1985, Đảng bộ và nhân dân xã Khánh Hòa đã đầu tư hàng tấn thóc cho các công trình và lập ngân sách xã. Phong trào văn hoá, thể thao được đẩy mạnh, thu hút đông đảo nhân dân tham gia.

Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể được Đảng bộ chú trọng. Giáo dục cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ hàng đầu thường xuyên để xây dựng đảng bộ vững mạnh cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đến giữa tháng 4 năm 1984, Đảng bộ Khánh Hòa tiến hành Đại hội lần thứ XVII tại trụ sở xã. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 15 ủy viên. Đồng chí Lê Văn Cán được bầu làm Bí thư.

Từ năm 1981 đến 1985, Đảng bộ phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chính quyền được tăng cường, năng lực quản lý ngày càng tăng, các đoàn thể nhân dân hoạt động tốt. Nhờ đó các phong trào cách mạng xã Khánh Hòa không ngừng được phát triển, đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân ngày càng được cải thiện.

Trong điều kiện có nhiều khó khăn về thiên tai, nhưng sản xuất vẫn duy trì, có mặt phát triển, đặc biệt là lương thực. 

Cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức rõ vai trò quan trọng của lương thực, vụ chiêm xuân tập trung tăng cường thâm canh, áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Do đó, đưa năng suất từ 26,2 tạ/ha năm 1985 tăng 12 tạ/ha so với thời kỳ 1976-1981. Vụ mùa chịu ảnh hưởng của cơn bão số 6,7,8 dẫn đến 70% diện tích bị thiệt hại nặng. Tuy vậy, do khắc phục hậu quả tốt, ngày công của xã viên vẫn đạt 1kg thóc.

Trong 3 năm (1983-1985), Đảng bộ và nhân dân đã kiên trì khắc phục khó khăn, năng động sáng tạo giành thắng lợi tương đối toàn diện, trước hết là lương thực, hàng xuất khẩu, đời sống nhân dân được ổn định.

II. Đảng bộ lãnh đạo thực hiện sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1986-2000)

Năm 1986, Đảng bộ, nhân dân xã Khánh Hòa cùng nhân dân cả nước hăng hái thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng. Đảng bộ xã lãnh đạo từng bước khắc phục khó khăn ổn định đời sống xã hội, vươn lên phát huy tiềm năng thế mạnh cả về cơ sở vật chất lẫn tinh thần. Tháng 9 năm 1986, Đảng bộ xã Khánh Hòa tổ chức Đại hội lần thứ XVIII, nhiệm kỳ (1986-1988) tại Hội trường UBND xã. Đại hội đánh giá và chỉ rõ những khó khăn và yếu kém còn tồn tại, nêu bật những thuận lợi cần phát huy, đồng thời đề ra phương hướng phát triển kinh tế - xã hội là huy động mọi tiềm năng sẵn có của địa phương tổ chức sản xuất hạch toán làm ăn có lãi, đảm bảo cải thiện đời sống nhân dân. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 17 ủy viên. Đồng chí Phan Văn Dân được bầu làm Bí thư.

Từ quý IV năm 1986, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa hăng hái tiếp tục thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội huyện Đảng bộ huyện Tam Điệp đề ra. Với tinh thần Đại hội “đoàn kết thống nhất ý chí và hành động cách mạng”, Đại hội thực hiện đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo. Đảng bộ quyết tâm lãnh đạo nhân dân hăng hái lao động, sản xuất, nâng cao năng suất lao động góp phần đạt bình quân 50.000 tấn lương thực/năm trong toàn huyện, nếu có thiên tai nặng cũng phải đạt 45.000 tấn/năm. Ra sức sản xuất cây màu, đặc biệt đối với các cây công nghiệp: lạc, đậu.

Cùng với trồng cây công nghiệp đẩy mạnh phát triển ngành nghề: thêu ren, thảm len… để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu đưa giá trị hàng hoá xuất khẩu lên bình quân 70 triệu đồng/năm, phấn đấu đến năm 1988 mỗi HTX có giá trị xuất khẩu ít nhất là 1 triệu đồng để góp phần cùng toàn huyện đạt bình quân xuất khẩu 500 đồng/năm/người.

Nhằm đẩy mạnh tiến độ sản xuất, Đảng bộ Khánh Hòa chú trọng lãnh đạo xây dựng cơ cấu mùa vụ, đẩy nhanh mở rộng vụ lúa hè thu. Cây vụ đông giảm 50% diện tích khoai lang, tăng diện tích ngô đông. Trong điều kiện vật tư, tiền vốn khó khăn, thời tiết khắc nghiệt, các HTX năng động khai thác các nguồn vật tư phân bón đạt 30-35 tạ/ha/năm. Do chỉ đạo đúng hướng về cơ cấu mùa vụ, xã Khánh Hòa biết lách thời tiết thiên nhiên, xác định vụ lúa hè thu và ngô đông trên đất 2 lúa, không chỉ để chống úng lụt vụ mùa mà còn chuyển từ sản xuất không ổn định sang ổn định mở ra hướng mới có triển vọng lớn. Đảng bộ Khánh Hoà mạnh dạn chuyển hàng chục ha lúa (lúa xuân, lúa mùa chính vụ) không ổn định, sản lượng thấp sang 3 vụ ổn định hơn (lúa xuân, lúa hè thu, ngô đông) giải quyết được lương thực, thúc đẩy chăn nuôi, xuất khẩu, cây công nghiệp, ngành nghề phát triển.

Đảng bộ Khánh Hòa xác định xuất khẩu là một mũi đột phá để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ có chủ trương đúng, sản xuất cây công nghiệp có bước tiến nhanh, tác động tích cực đến sản xuất và đời sống nhân dân trong xã. Đảng bộ chú trọng lãnh đạo phát huy tiềm năng thế mạnh của đất đai và nghề truyền thống. Chú trọng đến 2 mặt truyền thống đó là cây nông sản, chủ yếu là lạc, đậu tương. Không ngừng mở rộng diện tích lạc hàng năm, trên cơ sở cải tạo đất, thay đổi phương thức cây trồng, mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật trồng lạc, do đó đưa năng suất từ 13,9tạ/ha năm 1983 lên 15,3 tạ/ha năm 1986, tăng 1,4 tạ/ha. Sản xuất phát triển, góp phần tích cực vào quá trình cân đối tiền - hàng, ổn định giá cả, quản lý thị trường. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Chỉ sau 3 vụ khoán sản phẩm, đại đa số nhân dân và các HTX nông nghiệp đã có quỹ lương thực dự trữ. Nông thôn Khánh Hòa có 89% số gia đình nhà xây, lợp ngói, mua sắm các tiện nghi gia đình. Đời sống ổn định và nâng lên, việc thực hiện nghĩa vụ và đóng góp cho Nhà nước nhanh, gọn.

Nông nghiệp phát triển, góp phần thúc đẩy lĩnh vực văn hoá - xã hội từng bước đi lên. Phong trào thi đua “2 tốt” được Đảng bộ quan tâm và chỉ đạo đối với các cấp và bậc học theo hướng cải cách giáo dục. Số lượng, chất lượng học sinh các cấp được giữ vững. Công tác y tế có bước tiến bộ trong phong trào 5 dứt điểm, tăng cường công tác phòng bệnh. Cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch được các đoàn thể chú trọng tuyên truyền, thực hiện truyền thông có hiệu quả.

Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp. Đại hội ra Nghị quyết về đổi mới toàn diện của đất nước. Có Nghị quyết Đại hội VI của Đảng soi sáng, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân xã Khánh Hòa thực hiện 4 chương trình kinh tế - xã hội: sản xuất lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu, thực hiện dân số kế hoạch hoá gia đình. Nhận thức sâu sắc đường lối Đại hội V, VI của Đảng “vốn quý ban đầu của nước ta là đất đai, lao động và ngành nghề”. Đảng bộ xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và quyết tâm làm cho mọi đất đai đều được khai thác, mọi ngành nghề đều được phát triển, mọi người đều có việc làm. Chính sách kinh tế mới “làm cho sản xuất bung ra” giải phóng sức lao động ở nông thôn, nông nghiệp, khai thác được mọi tiềm năng thế mạnh về đất đai, lao động, tiền vốn, trí tuệ làm cho sản xuất nông nghiệp chuyển biến mạnh mẽ. Đảng bộ lãnh đạo tập trung đầu tư, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng. Các HTX đã cung cấp phân bón, bảo vệ thực vật, dầu máy… phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Trồng trọt đạt năng suất cao, thúc đẩy chăn nuôi phát triển, mục tiêu duy trì 4 con (cá, lợn, vịt, trâu bò) được giữ vững. Các hộ gia đình chú trọng chăn nuôi thuỷ sản. Trâu bò mỗi năm đều tăng, giá trị chăn nuôi hàng năm đạt bình quân 400 triệu đồng.

Bám sát mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ 17, Đảng bộ xác định phát triển ngành nghề là nhiệm vụ trong tâm, các nghề truyền thống như vật liệu xây dựng, thêu ren, thảm len được giữ vững, một số nghề mới hình thành, từng bước phát triển. Nghề mộc, nề được đẩy mạnh trong các thôn xóm. Ngành nghề phát triển góp phần tăng nguồn thu ngân sách, hàng năm đạt 200 triệu đồng, đạt 120% kế hoạch. Trong 4 năm (1986-1989) năng suất lúa hàng năm đều tăng năm sau cao hơn năm trước. Bình quân lương thực đầu người đạt 350kg/năm, số hộ thiếu đói hàng năm đã giảm đáng kể.

Đảng bộ thường xuyên quan tâm đến các công trình phúc lợi cho nhân dân, đặc biệt là sự nghiệp giáo dục. Với quyết tâm nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân, y tế được quan tâm đúng mức, phong trào vệ sinh phòng bệnh được nhân dân hưởng ứng, kế hoạch hoá gia đình trở thành tiêu chí cần thiết của mỗi gia đình, trong năm có 23 trường hợp đặt vòng tránh thai, đạt 78,5% kế hoạch.

Các phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi, được các đoàn thể chú trọng đầu tư. Nhiều hoạt động thể dục, thể thao được nhân dân hưởng ứng, như chạy, tập thể dục, bóng đá… những đội văn nghệ quần chúng trong thôn, xã được khơi dậy.

Đảng bộ tập trung lãnh đạo xây dựng gia đình văn hoá. Các đoàn thể đẩy mạnh học tập, ngăn chặn tệ nạn xã hội, nhất là giáo dục nhân dân nhận thức về vấn đề tôn giáo, chính sách tôn giáo, phân biệt giữa tín ngưỡng và hành vi mê tín dị đoan. Công tác quân sự - quốc phòng được đẩy mạnh. Đánh giá chung kế hoạch huấn luyện hoàn thành, công tác hội thao, giao quân xã Khánh Hòa đạt khá.

Công tác xây dựng Đảng được Đảng bộ quan tâm thường xuyên, đặt lên hàng đầu công tác giáo dục chính trị tư tưởng, chú trọng công tác xây dựng tổ chức. Nguyên tắc sinh hoạt Đảng được duy trì đều đặn thường xuyên đối với cán bộ và đảng viên. Đảng bộ không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, khơi dậy trí tuệ cán bộ, đảng viên, thực hiện chế độ khen thưởng và kiểm tra kỷ luật nghiêm minh.

Đảng bộ ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình phục vụ sản xuất và phúc lợi. Vốn đầu tư được huy động từ nguồn đầu tư của cấp trên và đóng góp của địa phương. Trong 2 năm 1987-1988, Đảng bộ xã Khánh Hòa xây dựng được trạm bơm, một trong các công trình lớn của huyện Tam Điệp. Cùng với tăng cường xây dựng, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, Đảng bộ quan tâm từng bước củng cố quan hệ sản xuất. Đảng bộ  triển khai học tập Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Thông báo 62 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về thực hiện cơ chế khoán mới trong nông nghiệp cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.

Sau khi học tập Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Thông báo 62 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về thực hiện cơ chế khoán mới trong nông nghiệp, tháng 6 năm 1987, Đảng bộ xã Khánh Hòa đã lãnh đạo thực hiện cơ chế khoán 5 khâu đến tổ nhóm và người lao động. Đồng thời lãnh đạo chia tách (Hợp tác xã Hòa Bình), mô hình HTX toàn xã, thành 3 HTX: Đông Hòa, Xuân Bình và Yên Khang trong tháng 6 năm 1987. Ba HTX Đông Hòa, Xuân Bình và Yên Khang đều tiến hành Đại hội nhiệm kỳ 1987-1989 và đi vào hoạt động sản xuất theo mô hình HTX đổi mới.

Thực hiện chủ trương cải tiến quản lí, áp dụng cơ chế khoán mới, ngay từ vụ hè thu, vụ mùa Đảng bộ Khánh Hòa áp dụng mô hình hoàn thiện khoán mới. Do cơ chế khoán mới, người lao động thấy rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình phấn khởi hăng hái lao động sản xuất, chú ý đầu tư vào sản xuất. Tập trung thâm canh, nhiều hộ xã viên kinh tế khá mua thêm trâu bò cày kéo. Đảng bộ Khánh Hòa có 50% quỹ đất được giao cho người lao động, 50% quỹ đất còn lại giao thêm cho những hộ làm nông nghiệp giỏi, không khê đọng sản phẩm.

Cuối tháng 12 năm 1988, Đảng bộ Khánh Hòa tiến hành Đại hội Đảng bộ xã khóa XIX (1989-1990) tại Hội trường UBND xã. Đại hội tập trung đánh giá, kiểm điểm việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ (khóa XVIII), đề ra phương hướng, mục tiêu nhiệm kỳ (1989-1990). Đảng bộ tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, chú trọng phát triển ngành nghề, khơi dậy ngành nghề truyền thống. Xác định công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát huy vai trò lãnh đạo của đảng bộ trong việc thực hiện kinh tế - xã hội.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 15 uỷ viên, đồng chí Phạm Quang Bình được bầu làm Bí thư.

Ngày 2/11/1989, Đảng uỷ tổ chức hội nghị mở rộng tới Bí thư chi bộ, thảo luận xây dựng kế hoạch sản xuất hai năm 1989-1990. Kế hoạch được triển khai tới các hợp tác xã nông nghiệp. Ngày 10/11/1989, Uỷ ban nhân dân xã phát động chiến dịch Đông Xuân. Chiến dịch thực hiện qua 3 bước và 5 mũi tấn công.

- Bước 1 từ ngày 11/11 đến ngày 30/11/1989

- Bước 2 từ ngày 1/2 đến ngày 10/12/1989.

- Bước 3 từ ngày 11 đến ngày 20/12 1989.

Mũi 1: Về sản xuất nông nghiệp, các hợp tác xã đôn đốc chỉ đạo thu nhanh, thu gọn sản phẩm hè thu và sản phẩm vụ mùa. Quy hoạch vùng mạ, hướng dẫn xã viên gieo và làm đúng kỹ thuật, tưới tiêu, phòng trừ sâu bệnh cho mạ, làm thuỷ lợi nội đồng, tiếp thu giống mới.

Mũi 2: Các ngành nghề trong hợp tác xã tiếp tục đẩy mạnh sản xuất ngành nghề, quy vùng diện tích trồng dâu nuôi tằm.

Mũi 3: Chỉ đạo làm tốt công tác bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp.

Mũi 4: Chỉ đạo làm tốt công tác an ninh, quốc phòng và thực hiện tốt Chỉ thị 135, làm tốt công tác tuyển quân.

Mũi 5: Chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, vận động mở rộng trồng rau xanh.

Đảng bộ thành lập Ban Chỉ huy chiến dịch và Ban Thanh tra chiến dịch gồm các đồng chí lãnh đạo cấp uỷ, Ủy ban nhân dân, các ngành, các giới trong xã và Hợp tác xã. Ban Chỉ huy chiến dịch gồm 15 thành viên. Đồng chí Phạm Thị Nhất, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã làm Trưởng ban. Ban Thanh tra chiến dịch gồm 9 thành viên, đồng chí Vũ Xuân Lệnh Trưởng ban.

Chiến dịch Đông - Xuân được phát động cán bộ, đảng viên, nhân dân hăng hái tham gia sôi nổi. Các đoàn thể nhân dân làm nòng cốt trong chiến dịch. Các Hợp tác xã, đội sản xuất thi đua thực hiện và vượt các chỉ tiêu của chiến dịch.

Cùng với lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất, Đảng bộ thường xuyên quan tâm công tác văn hoá - xã hội. Sự nghiệp giáo dục được đảng bộ đặt lên hàng đầu. Do đó, số học sinh đỗ tốt nghiệp các cấp học mỗi năm đều tăng. Nhằm nâng cao đời sống vật chất, sức khoẻ của nhân dân, cấp uỷ Đảng và chính quyền thực hiện nhiều biện pháp xây dựng, củng cố, nâng cao mạng lưới y tế; truyền thông về kế hoạch hoá gia đình tới tận thôn xóm, gia đình. Do kết hợp chặt chẽ biện pháp trruyền thông với thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình. Tỷ lệ tăng dân số từ 1,9% năm 1987 xuống còn 1,69% năm 1989. Công tác phòng dịch bệnh có nhiều kết quả, trong nhiều năm xã Khánh Hoà không có dịch bệnh xảy ra.

Bằng sự nỗ lực của toàn Đảng bộ, phát huy truyền thống đoàn kết và năng động của nhân dân, Đảng bộ Khánh Hòa hoàn thành nhiệm vụ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự… Đảng bộ tiếp tục đạt vững mạnh, chính quyền phát huy năng lực quản lý, hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch.

Trong bối cảnh tình hình thế giới biến động phức tạp, Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng cán bộ, đảng viên, nhân dân làm ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động kinh tế - xã hội của địa phương. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Đảng bộ xã Khánh Hòa phát huy tinh thần dân chủ, động viên nhân dân, cán bộ đoàn kết, kiên trì phấn đấu, vượt qua thử thách, đổi mới tư duy đưa phong trào tiến lên. Từ kết quả thực hiện 4 chương trình kinh tế - xã hội, Đảng bộ xác định “Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”, lương thực là mục tiêu số một. Đảng bộ xây dựng phương hướng tiếp tục đẩy mạnh trồng trọt, chăn nuôi, mở rộng ngành nghề gắn liền với thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá gia đình.

Cùng với chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Đảng bộ chú trọng cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn. Khâu đột phá cải biến cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là điện. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, xã Khánh Hòa vận dụng phối kết hợp giữa nguồn vốn của hợp tác xã với đóng góp nhân dân để xây dựng đường lưới điện. Có điện, sản xuất phát triển, nông thôn thay da đổi thịt, cải thiện nâng cao đời sống nhân dân. Xã Khánh Hòa đã có 3 km đường dây cao thế, 21,15 km đường dây hạ thế phục vụ sản xuất và sinh hoạt.

Hoạt động văn hoá, thông tin, được Đảng bộ quan tâm. Hoạt động văn hoá trở thành một nhu cầu, góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức, lối sống của đông đảo nhân dân trong xã. Phong trào thể dục thể thao được khơi dậy, chạy buổi sáng, tập thể dục. Nhất là hoạt động bóng đá của thanh niên, thiếu niên, Khánh Hòa là xã có phong trào thể dục thể thao khá của huyện.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, lực lượng dự bị động viên ổn định, dân quân được củng cố, xây dựng phương án phá án, tác chiến tốt, đã giải quyết nhiều vụ gây rối, lộn xộn trong địa bàn xã.

Công tác xây dựng Đảng được coi trọng, đây là nhiệm vụ then chốt, Đảng bộ tập trung lãnh đạo xây dựng đảng bộ vững mạnh trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức; không ngừng nâng cao chất lượng đảng viên. Đảng bộ xã Khánh Hòa chú trọng công tác tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên. Thường xuyên quán triệt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, đưa thông tin tình hình quốc tế, trong nước tới cán bộ đảng viên bằng nhiều hình thức, thông qua nhiều hoạt động của các tổ chức đoàn thể như: Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội người cao tuổi… Đầu năm 1990, Đảng bộ tiến hành phân loại đảng viên, có 189/194 đảng viên trong Đảng bộ dự phân loại (có 15 đảng viên chưa phân loại). Kết quả, 114 đảng viên đạt loại 1; 56 đảng viên đạt loại 2 và 19 đảng viên đạt loại 3.

Xác định lý luận cách mạng là vũ khí chiến đấu của cán bộ đảng viên, Đảng bộ Khánh Hòa chú trọng cử cán bộ học các lớp chính trị ở trường đảng huyện, trường đảng tỉnh… đến năm 1990, Đảng bộ Khánh Hòa hoàn thành phổ cập chương trình lý luận chính trị sơ cấp cho đảng viên .

Đảng bộ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 8B (khoá VIII) của Trung ương Đảng. Cấp uỷ chỉ đạo chính quyền, các đoàn thể tăng cường phối hợp xây dựng và thực hiện quy chế về mối quan hệ giữa chính quyền và đoàn thể. Tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Trong 2 năm (1990-1991), đảng bộ xây dựng tổ chức Hội Cựu chiến binh, Hội Chữ thập đỏ đồng thời củng cố một bước các đoàn thể ngày càng vững mạnh, điển hình Hội Phụ nữ chăm lo thực hiện 2 cuộc vận động: giúp nhau làm kinh tế gia đình, nuôi dạy con, khắc phục trẻ suy dinh dưỡng, trẻ bỏ học do Trung ương Hội phát động. Hội Nông dân phối hợp với ngành nông nghiệp mở các lớp tập huấn nâng cao khoa học kỹ thuật cho hội viên, vận động các hội viên tham gia sản xuất và các hoạt động chính trị - xã hội, các đoàn thể chăm lo gia đình liệt sĩ, thương binh. Nhờ có hoạt động của các tổ chức đoàn thể, hội góp phần làm tăng thêm nhận thức đoàn kết nhất trí trong nhân dân, tạo sự chuyển biến về kinh tế - xã hội trong xã, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng bộ.

Đảng bộ tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp. Giữa năm 1991, thời tiết ấm, bệnh đạo ôn phát triển, ảnh hưởng lớn đến chất lượng mạ vụ chiêm, năng suất thấp. Đảng bộ kịp thời chỉ đạo chuẩn bị cho vụ hè thu, các HTX, đội sản xuất chuẩn bị tốt các khâu làm đất, quay vòng làm hè thu. Toàn xã làm 500 mẫu (trừ diện tích trồng dâu) các hợp tác xã tiến hành trồng ngô và khoai lang. Đảng bộ chỉ đạo tăng diện tích trồng 2 giống ngô mới Q2 và S2, do tập trung lãnh đạo sản xuất năng suất cây trồng được nâng lên rõ rệt. Vụ hè thu và vụ mùa năm 1991 các hợp tác xã đảm bảo được kế hoạch gieo trồng.

Hợp tác xã Đông Hòa diện tích cấy 226 mẫu 6 sào, năng suất 83 kg/sào, sản lượng 188.570 kg. Diện tích đậu tương 37 mẫu 5 sào, năng suất 27 kg/sào, sản lượng đạt 10.125 kg. Trong những năm 1987-1992, diện tích hè thu của HTX Đông Hòa chiếm 70%, diện tích còn lại gieo cấy lúa mùa sớm để sản xuất gối vụ đông. Năng suất lúa hè thu thường đạt từ 150-160 kg/sào, lúa chét tận thu đạt từ 20-25 kg/sào/vụ. Lúa mùa sớm thu nhập khá và ổn định, thường đạt từ 110-112 tạ/ha/năm.

Cùng với đẩy mạnh sản xuất cây lúa, HTX Đông Hòa chú trọng quy hoạch vùng đất trồng cây màu. Thực hiện chủ trương trồng dâu nuôi tằm của Huyện uỷ Tam Điệp và kế hoạch sản xuất của Đảng bộ, HTX Đông Hòa quy hoạch khoanh vùng 12,6 ha, giao khoán cho 74 hộ xã viên trồng dâu nuôi tằm kén trắng. Tuy cây dâu và nghề nuôi tằm mới được đưa vào sản xuất song đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhiều hộ xã viên đời sống nâng lên rõ rệt, mua sắm tivi, đài cát sét, đồ dùng nội thất đắt tiền...

Với thành tích mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng và mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp, HTX Đông Hòa là đơn vị điển hình về trồng dâu nuôi tằm và cấy lúa vụ hè thu của huyện Yên Khánh. Tháng 11 năm 1990, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đồng Sỹ Nguyên về thăm mô hình trồng dâu nuôi tằm của HTX, thăm gia đình đồng chí Bí thư Đảng uỷ Phạm Quang Bình là hộ xã viên có mô hình kinh tế VAC phát triển.

Bộ trưởng Nguyễn Công Tạn về thăm mô hình trồng lúa hè thu của HTX, thăm gia đình ông Phạm Văn Nhân (đội 4) về thành tích sản xuất lúa chiêm xuân, thăm gia đình bà Trần Thị Hường (đội 3), bà Phạm Thị Oanh (đội 2) về thành tích trồng dâu nuôi tằm công nghiệp (8/1991 và 6/1992). Tháng 10 năm 1992, Đoàn chuyên gia Nhật Bản, Bộ Nông nghiệp và Sở Nông nghiệp tỉnh Ninh Bình về khảo sát, rút kinh nghiệm trồng dâu nuôi tằm công nghiệp. Với thành tích trong sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn của HTX Đông Hòa trong 5 năm (1987-1992), HTX được UBND tỉnh tặng Bằng khen. Cán bộ xã viên HTX được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng Ba (tháng 1 năm 1992).

Hợp tác xã Xuân Bình diện tích trồng các loại 298 mẫu, tổng sản lượng 226.527 kg. Hợp tác xã Yên Khang tổng diện tích các loại 315 mẫu 5 sào, tổng sản lượng 233.500 kg. Đảng bộ chỉ đạo các HTX tập trung thường xuyên làm tốt thuỷ lợi nội đồng, lắp cống B1 ở các vùng, thửa đảm bảo tưới tiêu, giao thông. Tháng 10 năm 1991, Khánh Hòa tập trung sửa chữa đường thôn xóm từ ao chùa đội 7 đến đội 9. Tiếp tục sửa chữa đường liên thôn, liên xóm phát quang mở rộng để phục vụ sản xuất và xây dựng nông thôn mới.

Đảng bộ tập trung chăm lo công tác giáo dục, xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, trường lớp đảm bảo thuận lợi cho dạy và học; chỉ đạo các ngành tập trung vận động, giáo dục nhân dân, các bậc phụ huynh chăm sóc việc học tập của học sinh, khắc phục tình trạng học sinh bỏ học([39]). Đảng bộ triển khai đợt truyền thông tuyên truyền công tác kế hoạch hoá gia đình. Các đoàn thể như Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân… đều ra quân. Ngày 16/10/1991, mở đợt truyền thông mạnh mẽ trên phạm vi toàn xã.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Tam Điệp lần thứ 5. Sản xuất nông nghiệp xã Khánh Hòa phát triển toàn diện, nhất là sản xuất lương thực, thực phẩm. Giá trị trồng trọt bình quân trên một diện tích canh tác bằng mức bình quân của toàn huyện 8,43 triệu đồng/năm. Riêng sản lượng lạc ổn định, đậu tương tăng 12,5%.

Bình quân lương thực đầu người 2 năm (1992-1993) đạt 422 kg, tăng 33% so với bình quân 3 năm (1989-1991) bằng mức bình quân của toàn huyện và tăng 36% so với mục tiêu Đảng bộ huyện đề ra.

Hưởng ứng cuộc vận động ủng hộ nhân dân Cu Ba anh em. Đảng bộ triển khai cuộc vận động sâu rộng trong toàn Đảng bộ và nhân dân trong xã. Tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân đọc thư của đồng chí Nguyễn Hữu Thọ gửi các cấp, các ngành. Đảng bộ thành lập Ban vận động gồm 17 thành viên. Đồng chí Phạm Thị Nhất, Phó bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã làm Trưởng ban. Các chi bộ, đoàn thể vận động đảng viên, hội viên tham gia đóng góp. Ngày 10/11/1992 đợt vận động kết thúc đạt kết quả tốt đẹp.

Cùng với ủng hộ nhân dân CuBa anh em, Đảng bộ phát động trong xã quyên góp xây dựng quỹ chăm sóc người già. Mỗi hợp tác xã ủng hộ 1 triệu đồng, Uỷ ban nhân dân xã cũng tham gia lập quỹ. Kết thúc vào ngày 10/11/1992. Đảng bộ phát động quyên góp sổ vàng tình nghĩa đợt 2 (22-12). Đảng bộ và nhân dân xã Khánh Hòa đã quyên góp được 20 sổ vàng và 1 ngôi nhà tình nghĩa.

Qua 3 đợt phát động ủng hộ nhân dân trong nước và thế giới, tinh thần đoàn kết đùm bọc lẫn nhau trong cộng đồng được khơi dậy thắm đượm nghĩa tình dân tộc và đoàn kết quốc tế.

Các lĩnh vực kinh tế - văn hoá - xã hội đều phát triển một cách toàn diện, có mặt nổi trội. Năng suất lúa đạt 77,95 tạ/ha, tăng 7,4% so với năm 1992. Bình quân lương thực đầu người đạt 453kg, tăng 13,87% so với năm 1992. Nhiều hộ năng suất lúa đạt từ 100tạ/ha trở lên. Hợp tác xã Xuân Bình, Đông Hòa là những đơn vị đạt năng suất cây trồng cao trong huyện. Cùng với trồng trọt, chăn nuôi cũng phát triển, bình quân chăn nuôi 2 năm (1992-1993) tăng 21% so với 2 năm (1990-1991). Sản lượng lợn hơi xuất chuồng tăng 38% so với 2 năm (1990-1991). Đàn trâu bò giữ vững, chăn nuôi gia cầm tăng nhanh. Nhiều hộ chăn nuôi đặc sản ba ba, ếch, lươn, gà công nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Cơ chế khoán trong nông nghiệp tiếp tục được đổi mới. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá VI) về đổi mới cải tiến quản lý trong nông nghiệp, hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất nông nghiệp có thêm động lực mới thức đẩy kinh tế nông thôn. Năm 1993, Triển khai thực hiện Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy và Quyết định 313 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình. Nhân dân phấn khởi, nhận đất canh tác lâu dài (20 năm). Những gia đình chính sách (thương binh, liệt sỹ, người có công với nước) được ưu tiên hơn. Cơ chế khoán mới hợp lòng dân, hộ gia đình chăm lo đầu tư phát triển sản xuất. Các hợp tác xã quy hoạch từng vùng thâm canh, vùng trồng cây có giá trị kinh tế cao, lúa đặc sản. Trồng trọt năng suất cao, thúc đẩy chăn nuôi phát triển, ngành nghề mở rộng. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện. Các giống lúa có năng suất cao đưa vào sản xuất đạt hiệu quả. Các hợp tác xã chú trọng cây ngô đông và cấy tăng diện tích  đất  ruộng mạ. 

Nhờ có chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, sản xuất nông nghiệp phát triển, năm 1993 sản lượng lương thực đạt 98,7 tạ/ha. Sản lượng các năm tăng so với kế hoạch. Bình quân lương thực đạt 643kg thóc/người/năm. Giá trị nông nghiệp toàn xã đạt 7 tỷ đồng, hệ số vòng quay của đất tăng lên 3 lần.

Chăn nuôi và ngành nghề phát triển, toàn xã có gần 3.000 con lợn thịt và 500 con lợn sinh sản. Đàn gia cầm tăng cả về số lượng và chất lượng. Giá trị thu nhập từ chăn nuôi mỗi năm đạt 1,5 tỷ đồng.

Nghề truyền thống được khôi phục, điển hình là nghề thảm len, thêu ren, nghề mộc, nề… được mở rộng. Giá trị ngành nghề mỗi năm đạt hàng tỷ đồng.

Tiểu thủ công nghiệp từng bước phát triển vững chắc. Nhiều hộ gia đình mạnh dạn đầu tư vốn và sức lao động, mua sắm thiết bị máy cơ khí nhỏ và vừa để sản xuất. Ngành dệt thảm len, thêu ren, đan len…. được khôi phục và mở rộng trong các hợp tác xã, hộ xã viên. Do đó, xã Khánh Hòa đã giải quyết được 85% thời gian lao động nông nhàn trong các hộ nông dân, cải biến đáng kể cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Khánh Hoà trở thành một trong những xã phát triển mạnh về cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn của huyện Tam Điệp.

Sản xuất nông nghiệp và ngành nghề phát triển, đời sống người dân trong xã không ngừng được nâng cao. Đến hết năm 1993 Khánh Hòa đã có 100% gia đình chính sách có nhà xây, lợp ngói, nhiều hộ xây nhà kiên cố. Đại đa số nhân dân có tiện nghi nội thất sang trọng. Đời sống các gia đình chính sách, nhất là các gia đình liệt sĩ, thương binh nặng được quan tâm.

Trong 3 năm từ 1994 đến 1996 xã Khánh Hòa đã khám và chữa bệnh cho 30,168 lượt người, tiêm chủng cho 100% cháu trong độ tuổi, quản lý chặt chẽ các bệnh xã hội, phong trào xây dựng nếp sống mới, văn hoá mới, xây dựng khu dân cư tiên tiến được nhân dân hưởng ứng, đã có 75% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá. Văn nghệ, thể thao, thể dục hoạt động sôi nổi. Xã đã thành lập đội bóng đá thiếu niên, nhi đồng tham gia các giải thi đấu của huyện.

Cùng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, Đảng bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân. Khánh Hòa hoàn thành chương trình huấn luyện quân sự. Xác định đây là một nội dung cơ bản có tính quyết định đến nâng cao trình độ tác bảo vệ địa phương. Được sự hướng dẫn của Ban chỉ huy quân sự huyện, Khánh Hoà thành lập trung đội 30 người, xây dựng lực lượng dân quân dự bị. Lực lượng vũ trang xã được huấn luyện do huyện đội mở từ 5 đến 7 ngày. Đảng bộ Khánh Hòa thường xuyên làm tốt công tác hậu phương quân đội. Quán triệt sâu sắc Chỉ thị 30 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị 605 của Hội đồng Bộ trưởng, đẩy mạnh phong trào mua sổ tình nghĩa, làm nhà tình nghĩa. Xã Khánh Hòa đã mua được 60 sổ tình nghĩa.

Thực hiện Nghị định 59/CP của Chính phủ ngày 4/7/1994 về “thành lập huyện Yên Khánh”, xã Khánh Hòa cùng với 9 xã cũ của huyện Yên Khánh thuộc huyện Tam Điệp, chuyển về huyện Yên Khánh. Huyện Yên Khánh chính thức đi vào hoạt động từ tháng 9 năm 1994.

Sau khi ổn định tổ chức, đảng bộ, nhân dân trong xã bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đại hội Đảng bộ xã (khoá XIX), nhiệm kỳ (1991-1993) đề ra. Ngày 21/9/1994, Huyện uỷ Yên Khánh ra Nghị quyết về chăm sóc bảo vệ mùa màng, sản xuất vụ đầu năm 1994-1995, Nghị quyết chỉ rõ: “Đảng bộ và nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế xã hội năm 1994-1995, khắc phục hậu quả thiên tai do ảnh hưởng cơn bão số 8 gây ra. Ngày 7/11/1994, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện tiếp tục ra Nghị quyết số 03 NQ/HU về sản xuất chiêm xuân 1994-1995 “không ngừng đẩy mạnh tiến độ sản xuất, khắc phục hậu quả khó khăn trên các phương diện trong các điều kiện huyện chưa ổn định”. Thực hiện các Nghị quyết của Huyện uỷ Yên Khánh, Đảng bộ xã Khánh Hòa động viên nhân dân toàn xã hăng hái tiến quân vào mặt trận sản xuất, khắc phục hậu quả thiên tai giành vụ mùa thắng lợi, làm tốt vụ đông xuân. Mặt trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể, nhất là lực lượng thanh niên làm nòng cốt.

Cuối năm 1994 đầu năm 1995, sản xuất gặp nhiều khó khăn. Vụ chiêm hạn nặng, vụ mùa úng lụt. Cơn bão số 8, lượng mưa ở xã Khánh Hòa 500 mm, hàng trâm mẫu lúa bị ngập úng nặng, giảm 40% năng suất. Sau úng lụt, bệnh vàng lá lan rộng trên diện tích lúa mộc tuyền, tẻ thơm, nạn chuột tàn phá. Không chịu bó tay trước khó khăn, đảng bộ động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân trồng 400 mẫu ngô đông, tích cực chăm sóc lúa khắc phục hậu quả thiên tai. Năng suất lúa năm 1994 đạt 45 tạ/ha, đời sống nhân dân thời gian này gặp nhiều khó khăn.

Năm 1994, năm mà Đảng bộ xã Khánh Hòa có nhiều bước thăng trầm, Nội bộ Đảng, đội ngũ cán bộ quản lý có nhiều khó khăn, phức tạp, ảnh hưởng rất lớn đến lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị kinh tế - xã hội. Năm 1994, năm chuyển tiếp từ Đảng bộ huyện Tam Điệp về Đảng bộ huyện Yên Khánh. Tư tưởng của cán bộ, đảng viên nhân dân xen lẫn tâm trạng phấn khởi với trăn trở trước thực trạng của địa phương.

Được sự chỉ đạo của Huyện uỷ, trong 2 ngày 14 và 15/8/1995, Đảng bộ Khánh Hòa họp Đại hội (khoá XX), nhiệm kỳ 1995-2000, tại Hội trường UBND xã, 163 đảng viên tham dự (162 đảng viên chính thức, 1 đảng viên dự bị). Khẩu hiệu hành động của Đại hội là “Xanh đồng, xanh làng, xanh xóm”. Chủ trương, tinh thần của Đại hội hướng tới tạo thêm việc làm cho người lao động, hạ tỷ lệ sinh đẻ nhằm tăng trưởng kinh tế. Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng.

Động viên nhân dân áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa giống cây, con mới vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn kết. Chăm lo, củng cố đoàn thể quần chúng. Đại hội được nghe và thảo luận ý kiến của đại biểu cấp uỷ huyện. Thảo luận nghiêm túc những vấn đề còn tồn tại khuyết điểm, khắc phục yếu kém về ý thức chính trị, tư tưởng còn đọng lại trong một số đảng viên. Coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và đoàn kết tốt, giữ nghiêm nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng lệch lạc về nguyên tắc. Trong công tác quản lý chú trọng lề lối làm việc, xây dựng qui chế và điều hành quản lý theo qui chế.

Từ đánh giá đúng những thành tích đạt được, Đại hội Đảng bộ rút ra những bài học trong công tác quản lý, điều hành và xây dựng khối đoàn kết nội bộ. Đảng bộ phấn khởi, thống nhất cao và quyết tâm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng đảng bộ vững mạnh.

Đại hội đưa ra các mục tiêu kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ (1995 - 2000) gồm: Tổng sản lượng quy thóc: 3.500 tấn/năm.

- Bình quân lương thực đầu người 620kg/năm

- Chăn nuôi đạt 2 tỷ 879 triệu đồng/năm

- Giảm hộ nghèo.

- Tỷ lệ sinh giảm 1,7%

- An ninh quốc phòng: ổn định, giữ vững.

- Văn hoá - xã hội phát triển, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đảng bộ.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 11 uỷ viên. Đồng chí Nguyễn An Thảo được bầu làm Bí thư.

Sau đại hội, cán bộ, đảng viên và nhân dân Khánh Hòa bắt tay vào phong trào sản xuất thâm canh. Các hợp tác xã làm tốt công tác thuỷ lợi nội đồng, cải tạo mặt bằng, chú trọng khâu làm đất và tuyển chọn giống… Do làm tốt công tác chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sản xuất, triển khai đúng kế hoạch, kịp thời vụ, năng suất lúa 2 năm (1995-1996) đạt 105 tạ/ha, sản lượng đạt gần 800 tấn. Đàn lợn đã có trên 4.000 con, chăn nuôi gia cầm phát triển, giá trị chăn nuôi gia súc, gia cầm đạt 3,7 tỷ đồng, tăng 2,2 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập ngành nghề bình quân mỗi năm đạt 3,5 tỷ đồng. Vụ mùa năm 1996 mưa lớn làm ngập úng trên diện rộng, Đảng bộ kịp thời lãnh đạo nhân dân tích cực chống úng cứu lúa, cứu màu. Tuy nhiên, đợt lụt này nước rút nhanh, vùng đất cao và đồng màu vẫn có năng suất cao. Mất mùa cục bộ trong xã không ảnh hưởng nhiều đến năng suất bình quân chung. Thấm nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc” Đảng ủy tập trung chỉ đạo: tăng trưởng kinh tế gắn liền với đẩy mạnh phát triển kinh tế văn hoá - xã hội, các lĩnh vực y tế, giáo dục, thể dục thể thao… đều được các cấp uỷ, chính quyền quan tâm.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Khánh Hòa thực hiện tình đoàn kết quốc tế đã ủng hộ nhân dân Cu Ba anh em bị Chính phủ Mỹ cấm vận là 4.526.000 đồng.

Phát huy thành tích đạt được, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa hăng hái thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ (1996-2000) Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện nêu rõ: “Đảng bộ và nhân dân Yên Khánh phát huy tinh thần đoàn kết, tranh thủ thuận lợi, tập trung nguồn lực khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách, nêu cao tinh thần tự lực tự cường, quyết tâm phấn đấu tạo bước phát triển về mọi mặt, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng phát triển hàng hoá, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, từng bước công nghiệp hoá nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, an toàn xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh, xây dựng quê hương Yên Khánh giàu đẹp”. Cùng với phát triển sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, trên lĩnh vực văn hoá xã hội Đảng bộ chú trọng, chỉ đạo quan tâm.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cán bộ, đảng viên tập trung trí tuệ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ 20. Đoàn kết khắc phục khó khăn, đẩy lùi khuyết nhược điểm, đánh giá đúng thực trạng đảng bộ, từng bước đẩy kinh tế - xã hội của xã tiến lên. Nhân dân phấn khởi hào hứng trước những kết quả về kinh tế - xã hội đạt được. Tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân đoàn kết thống nhất, các đoàn thể đuợc quan tâm tạo ra động lực to lớn thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Đến năm 1999, tổng sản lượng quy thóc đạt bình quân trong nhiệm kỳ là 4.039 tấn/năm, tăng 530 tấn so mục tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra (tỷ lệ tăng 8,6%/năm), bình quân lương thực đạt 708kg/người/năm, tăng 88kg/người/năm so với mục tiêu Đại hội đề ra.

Trồng trọt phát triển, chăn nuôi được đẩy mạnh, giá trị chăn nuôi đạt 2 tỷ đồng/năm, so năm 1995 tăng 36%. Ngành nghề dịch vụ đạt 256.000 đồng/năm, tăng 38,6% so 1995. Tổng giá trị bình quân đầu người đạt 2.534.000 đồng/năm, tăng 40,8% so năm 1995. Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân cải thiện, hộ nghèo giảm nhanh. Công tác an ninh, chính trị đảm bảo, thôn xóm bình yên, nhân dân phấn khởi đoàn kết xây dựng khu dân cư tiên tiến. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện và Đảng bộ xã, cán bộ, đảng viên, nhân dân Khánh Hòa phấn khởi, hăng hái lao động nhằm đạt các mục tiêu kinh tế-xã hội. Ba hợp tác xã duy trì tiến độ sản xuất, năng suất cây trồng và con nuôi đạt cao, nghề tiểu thủ công phát triển, chương trình xoá đói giảm nghèo thực hiện có hiệu quả. Năm 1999-2000 chỉ còn 135 hộ đói. 100% gia đình có điện thắp sáng và cơ bản dùng nước sạch. Bước đầu một số hộ đã đưa điện vào sản xuất kinh doanh, 95% số hộ đã có phương tiện nghe nhìn.

Sự nghiệp giáo dục được Đảng bộ quan tâm. Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, phong trào giáo dục xã Khánh Hòa có bước phát triển. Nhiều phòng học được sửa chữa khang trang, trang bị đầy đủ các đồ dùng, phương tiện dạy học, do đó chất lượng giáo dục không ngừng được nâng lên. Các cấp học, bậc học hàng năm đạt tỷ lệ lên lớp từ 97-100%, tốt nghiệp cuối cấp đạt 99%, có nhiều giáo viên dạy giỏi. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng nâng lên, nhất là việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình, năm 2000 xã Khánh Hòa  hạ tỷ lệ sinh đẻ từ 1,6% xuống còn 1,4%.

Xã Khánh Hòa nằm gần đê sông Đáy và sông Vạc, là địa bàn phức tạp, nơi giao lưu nhiều khu vực. Là địa bàn quan trọng vùng phía tây bắc huyện, công tác an ninh quốc phòng trong tình hình mới luôn được đảng bộ chú trọng lãnh đạo chỉ đạo. Lực lượng công an viên được kiện toàn, huấn luyện nghiệp vụ. Mỗi xóm đều có tổ hoà giải, các tổ hoà giải hoạt động có hiệu quả, do vậy trật tự, trị an đoàn kết trong thôn xóm được bảo đảm.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện đội, công tác quân sự địa phương luôn được củng cố. Ban Chỉ huy xã đội được kiện toàn, xây dựng lực lượng dự bị động viên sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Lực lượng dân quân của xã thường xuyên được huấn luyện theo kế hoạch của Huyện đội Yên Khánh. Công tác tuyển quân, giao quân hàng năm đều đạt từ 110-115% kế hoạch.

Thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Ninh Bình về việc củng cố tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của hội VAC các cấp. Ban Thường vụ Huyện uỷ nhấn mạnh các cấp uỷ Đảng, chính quyền, ban ngành đoàn thể nhất là ngành nông nghiệp. Hội Nông dân, Hội Phụ nữ…. phát triển kinh tế VAC là một hướng có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Phong trào làm kinh tế VAC trên địa bàn huyện Yên Khánh lan rộng, nhiều hộ gia đình tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật vào phát triển kinh tế VAC, thu nhập cao. Xã Khánh Hòa phong trào kinh tế VAC được đẩy mạnh cùng trào lưu của huyện. Nhiều vườn tạp được cải tạo thành vườn cây có giá trị kinh tế cao,  sản xuất mang tính  hàng hoá.

Từ phong trào kinh tế VAC, các hội, đoàn thể khơi dậy phong trào cách mạng của xã. Hội Phụ nữ có phong trào “giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”, Đoàn thanh niên có phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, phong trào “CKT” (chất lượng, kiểu dáng, tiết kiệm) đã thúc đẩy đoàn thanh niên xã vượt khó, vươn lên lập thân, lập nghiệp, hỗ trợ nhau phát triển kinh tế giải quyết việc làm. Hội cựu chiến binh có phong trào “giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, quyết không cam chịu cảnh đói nghèo”. Các hội viên trong hhội phát huy bản chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong phong trào thi đua sản xuất, xoá đói giảm nghèo. Hội Nông dân thực hiện phong trào “thi đua sản xuất giỏi, vươn lên xoá đói giảm nghèo”. Đảng bộ phát động phong trào thi đua sản xuất giỏi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phá thế độc canh cây lúa, với khẩu hiệu “Mỗi gia đình có nhiều nghề, mỗi người biết nhiều việc”. Cán bộ, đảng viên là chủ hộ đi đầu phong trào, vận động nhân dân thi đua tham gia phong trào. Hội Nông dân Khánh Hòa tổ chức hội nghị nông dân giỏi, với tinh thần tiết kiệm chi tiêu tập trung nguồn vốn cho sản xuất. Hội nghị tạo ra khí thế thi đua học tập kinh nghiệm sản xuất và làm giàu chính đáng.

Ngày 21/10/1997 Hội nghị liên tịch gồm Ban Thường vụ Huyện uỷ, các đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện họp quán triệt Chỉ thị 21/TW của Bộ Chính trị về một số công việc cấp bách ở nông thôn hiện nay và Chỉ thị số 10/TU của Tỉnh ủy Ninh Bình về việc tăng cường công tác quản lý, sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn vốn, quĩ ở địa phương. Hội nghị đánh giá kết quả Đảng bộ và nhân dân Yên Khánh đạt được từ khi tái lập huyện (9/1994). Đồng thời chỉ rõ “một số xã, xóm, Hợp tác xã” việc huy động quản lý, sử dụng các nguồn vốn quỹ còn tuỳ tiện, thiếu dân chủ, sử dụng sai mục đích nợ nần dây dưa kéo dài nhiều năm, không có khả năng trả nợ, không nghiêm chỉnh chấp hành Pháp lệnh thống kê - kế toán, bộ máy tài chính cấp xã vừa yếu năng lực hoạt động kém hiệu quả.

Thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 10-CT/TU của Tỉnh uỷ và thông báo. Kết luận số 53-TB/KL của Ban Thường vụ Huyện uỷ Yên Khánh. Đảng bộ xã Khánh Hòa triển khai đợt quán triệt học tập trong toàn Đảng và nhân dân. Cán bộ, đảng viên đã nghiêm túc kiểm điểm, đóng góp chân thành xây dựng tình đồng chí. Nhân dân phấn khởi tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tham gia xây dựng thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân.

Đảng bộ tiến hành củng cố công tác xây dựng Đảng. Chế độ duy trì sinh hoạt Đảng được đặt lên hàng đầu, nâng cao chất lượng sinh hoạt trong các chi bộ. Trong 3 năm (1997-2000), Đảng bộ đã cử nhiều đảng viên học lớp lí luận chính trị phổ thông, quần chúng ưu tú đi học lớp đối tượng Đảng để bổ sung vào đội ngũ của Đảng.

Nhận thức đầy đủ và thực hiện nghiêm túc Thông báo Kết luận số 53-TB/KL của Ban Thường vụ Huyện uỷ Yên Khánh về một số công việc cấp bách ở nông thôn hiện nay. Thông báo chỉ rõ “đánh giá đúng đắn sự lãnh đạo, triển khai thực hiện các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể… xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết nông thôn giữ vững ổn định chính trị, xã hội phát triển sản xuất từng bước nâng cao đời sống nhân dân”. Với tinh thần nhìn thẳng sự thật, xem xét nghiêm minh khách quan và xây dựng, Đảng bộ Khánh Hòa đã kịp thời xem xét, xử lý nghiêm túc những vụ việc tồn đọng.

Dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, Đảng bộ xã Khánh Hòa tiếp tục, củng cố kiện toàn bộ máy, tập trung lãnh đạo ổn định tình hình và thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Khâu đột phá của Đảng bộ là động viên nhân dân thực hiện làm đường giao thông nông thôn. Nhân dân phấn khởi tự tin, phát huy truyền thống quê hương, hưởng ứng phong trào làm đường bê tông nông thôn, phát huy dân chủ, các xóm thực hiện cơ chế tự quản huy động nguồn vốn đóng góp của nhân dân để xây dựng đường xóm, thôn.

Từ năm 1998 đến năm 2000 các cuộc vận động quyên góp ủng hộ quỹ “vì trẻ thơ” quỹ “đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng “quỹ vì người nghèo”, ủng hộ nạn nhân chất độc da cam, mua công trái xây dựng Tổ quốc, mua xổ số xây dựng bệnh viện đa khoa Ninh Bình, ủng hộ nhân dân vùng bị bão lụt miền Trung và đồng bào sông Cửu Long, huy động được 39.214.000 đồng. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng phối hợp chặt chẽ, phát động phong trào xoá đói giảm nghèo, giúp nhau phát triển kinh tế có hiệu quả, điển hình là Hội Phụ nữ, Hội Nông dân.

Nhìn lại chặng đường 25 năm từ sau chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đến năm 2000, trong đó có 15 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo (1986-2000), Đảng bộ và nhân dân xã Khánh Hòa đã nỗ lực, đoàn kết, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của cấp trên vào điều kiện thực tế của địa phương, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế - xã hội có bước phát triển, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới.

Mặc dù còn có những hạn chế, khó khăn, song những kết quả đạt được trong 25 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta lãnh đạo đã để lại cho Đảng bộ và Nhân dân Khánh Hòa những bài học vô cùng quý báu có giá trị to lớn đối với chặng đường tiếp theo - chặng đưởng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quê hương vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

 

Chương V

ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO TIẾP TỤC THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN (2000-2022)

I. Đảng bộ lãnh đạo tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn (2000-2010)

Bước vào thiên niên kỷ mới, thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW của Bộ Chính trị về tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy, trong 2 ngày 29 và 30/9/2000, Đảng bộ xã Khánh Hòa tổ chức Đại hội lần thứ XXI tại hội trường Uỷ ban nhân dân xã, có 111 đại biểu chính thức tham dự. Đại hội đón 17 đại biểu khách mời gồm đảng viên 40 năm, 50 tuổi Đảng, 2 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, đại biểu là cán bộ cao cấp trong lực lượng vũ trang đã về nghỉ hưu tại quê hương và đại biểu cấp uỷ cấp trên về chỉ đạo Đại hội.

Đại hội tập trung trí tuệ đánh giá công tác lãnh đạo của Đảng bộ khoá XX (1995-2000). Đồng thời, đề ra phương hướng nhiệm vụ (khoá XXI) nhiệm kỳ (2001-2005), đề ra mục tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ:

1- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 8%, trong đó nông nghiệp tăng 5%.

2- Cơ cấu kinh tế đến năm 2005: nông nghiệp 65%, tiểu thủ công nghiệp 15%, dịch vụ 20%.

3- Sản lượng lương thực quy thóc đến năm 2005 đạt 5.048 tấn

Bình quân lương thực đầu người 824 kg/người/năm.

4- Giá trị sản phẩm đạt 27,5 triệu đồng/ha canh tác.

5- Bình quân thu nhập đến năm 2005 đạt 4,5 triệu đồng/năm.

6- Thu ngân sách trên địa bàn hàng năm tăng 4%.

7- Tỷ lệ hàng năm giảm 0,4%. Tăng dân số hàng năm dưới 1%.

8- Phấn đấu đến năm 2005 cơ bản không còn hộ nghèo.

9- Phấn đấu đến năm 2005 có 100% ngõ, xóm đường được bê tông hoá, nhựa hoá được vật liệu cứng. Cơ bản nhựa hoá đường trục xã. Đẩy mạnh kiên cố hoá kênh tưới vùng lúa màu. Phấn đấu đến năm 2005 xây dựng trường Tiểu học cao tầng và đạt chuẩn quốc gia. Phấn đấu từng bước xây dựng trường mầm non, xây dựng trạm bưu điện văn hoá.

10- Đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, đảm bảo ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.

11- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm tốt công tác quân sự địa phương và chính sách xã hội.

12- Hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương và nghĩa vụ đóng góp với Nhà nước.

13- Xây dựng, củng cố chính quyền và các đoàn thể nhân dân vững mạnh, hoàn thành cuốn lịch sử Đảng bộ xã.

Phấn đấu hàng năm 100% chi bộ đạt vững mạnh, 80-90% đảng viên đủ tư cách phát huy tác dụng tốt, kết nạp đảng viên mới mỗi năm từ 4 đến 5%.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 15 uỷ viên, đồng chí Phan Văn Dân được bầu là Bí thư.

Năm 2001, năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, năm toàn Đảng, toàn dân đón chào sự kiện chính trị trọng đại: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thành công. Đồng thời, toàn Đảng tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 lần (2) về cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa phát huy những thuận lợi, thành tích đã đạt được, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, rút ra những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đoàn kết phấn đấu tạo những bước chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, củng cố xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh.

Từ thực tiễn phong trào cách mạng, Đảng bộ quan tâm công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo sự chuyển biến tích cực, niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách Pháp luật của Nhà nước, vai trò lãnh đạo của đảng bộ. Do đó, khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và nhân dân được củng cố và nâng cao. Tinh thần đấu tranh thẳng thắn với những nhận thức, quan điểm sai trái đối với đường lối, chủ trương của Đảng, đối với Nghị quyết của đảng bộ, chi bộ được thực hiện trong tổ chức và sinh hoạt Đảng.

Cùng với công tác nâng cao chính trị, tư tưởng, đảng bộ tập trung lãnh đạo công tác tổ chức bộ máy và cán bộ. Ngay từ năm 2001-2002, đảng bộ đã chỉ đạo các chi bộ thôn xóm tiến hành Đại hội (nhiệm kỳ 2001-2002). Đảng uỷ tập trung chỉ đạo chặt chẽ về mọi mặt. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nắm vững tiêu chuẩn, đảm bảo dân chủ rộng rãi, trong quá trình tiến hành chuẩn bị Đại hội, nhờ đó phát huy được trí tuệ của đảng viên. Đội ngũ cán bộ cấp uỷ (chi bộ) đảm bảo chất lượng, bình quân độ tuổi 40,3 tuổi.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chú trọng. Đảng bộ thường xuyên cử cán bộ, đảng viên bồi dưỡng các lớp văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị để không những đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm vững chuyên môn nghiệp vụ mà còn nắm chắc lý luận chính trị, có phương pháp công tác tốt đáp ứng được nhiệm vụ. Năm 2001, có 47 quần chúng được học lớp đối tượng cảm tình Đảng, 15 đảng viên mới kết nạp dự học chương trình lý luận chính trị phổ thông; kết nạp 15 quần chúng vào Đảng. Đảng bộ thường xuyên tiến hành thực hiện nguyên tắc sinh hoạt đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2).

Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ Khánh Hòa rất chú trọng việc sàng lọc đội ngũ. Trong năm cấp uỷ Đảng đã tập trung xem xét, chỉ đạo, xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm sai lầm, khuyết điểm. Do đó, làm tốt công tác xây dựng Đảng trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức. Năm 2001 đã có bước phát triển cả về tổ chức đảng và công tác đảng viên. Đảng bộ Khánh Hòa có 13 chi bộ dự phân loại. Kết quả, 9 chi bộ đạt vững mạnh chiếm 69,23%; 4 chi bộ đạt khá chiếm 30,76%, không có chi bộ yếu kém. Đối với chất lượng đội ngũ đảng viên, qua phân loại có 194 đảng viên dự phân loại trong tổng số 224 đảng viên toàn Đảng bộ (có 17 đảng viên được miễn sinh hoạt, không tham gia dự phân loại). Kết quả, đảng viên đủ tư cách 176 đảng viên, chiếm 90,72% tăng 6,6% so với năm 2000; đảng viên đủ tư cách có mặt còn hạn chế 17 đảng viên chiếm 8,76% giảm 5% so với năm 2000; đảng viên có vi phạm là 1 đảng viên chiếm 0,51%, giảm 1,6% so với năm 2000.

Cùng với quan tâm lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, đảng bộ chú trọng tới việc xây dựng chính quyền, đoàn thể vững mạnh; đẩy mạnh các hoạt động của quần chúng trong việc xây dựng quê hương. Tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong các tầng lớp nhân dân, thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội. Bằng các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”. Năm 2001 xã Khánh Hòa có thêm 2 thôn khu dân cư tiên tiến và 1 làng văn hoá. Nhân dân Khánh Hòa phát huy truyền thống tương thân tương ái, hoạt động từ thiện kết quả cao. Phong trào xoá đói giảm nghèo, giúp nhau làm kinh tế gia đình, chương trình nâng cao kiến thức phụ nữ, phong trào thi đua hội viên, gia đình gương mẫu của cựu chiến binh, phong trào thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, phong trào lao động sáng tạo, liên kết phục vụ nông nghiệp trong công nhân viên chức và đoàn thanh niên được khơi dậy, hoạt động mạnh mẽ.

Do nâng cao và đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và Đảng bộ, sự kết hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị tạo nên sức mạnh to lớn trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện kinh tế xã hội có hiệu quả. Trong năm 2001 tổng diện tích gieo trồng đạt 1.010 ha, hệ số quay vòng đất 3 vụ. Năng suất lúa bình quân 118,6 tạ/ha/năm. Tổng sản lượng quy thóc đạt 4.253 tấn. Trong đó màu quy thóc 513,6 tấn so với kế hoạch đạt 97%, so với năm 2000 tăng 2,95%. Bình quân lương thực đạt 723kg/người/năm tăng 2,86%. Giá trị thu nhập từ trồng trọt 10 tỷ 25 triệu đồng đạt 93% kế hoạch. Giá trị thu từ chăn nuôi 4 tỷ 328 triệu đồng đạt 111% kế hoạch. Giá trị thu từ ngành nghề, dịch vụ thu khác 4 tỷ 672 triệu đồng đạt 107% kế hoạch. Tổng giá trị thu nhập là 19 tỷ 25 triệu đồng đạt 99% kế hoạch, tăng so với năm 2000 là 7,97%. Khánh Hoà có lợi thế đồng màu, phát huy thế mạnh trồng cây công nghiệp, trong nông nghiệp như lạc, đậu tương. Cây lạc vụ xuân năng suất đạt 22 tạ/ha, đậu tương đạt 21 tạ/ha. Ngoài ra cây ngô đạt 46 tạ/ha. Trồng trọt phát triển thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Tổng đàn lợn trong năm có 4.200 con, trong đó có 550 lợn nái. Sản lượng lợn thịt xuất chuồng đạt 242 tấn; lợn con là 79 tấn. Đàn gia súc 480 con, xuất chuồng 160 con, gia cầm các loại 36.000 con, sản lượng xuất chuồng trong năm ước đạt 47 tấn. Chăn nuôi thủy sản có 16ha nuôi cá, ước đạt 29 tấn/năm. Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Đảng bộ lãnh đạo cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn một cách đáng kể. Tỷ trọng cơ cấu giữa sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ được chuyển dịch theo hướng giảm nông nghiệp, tăng tiểu thủ nông nghiệp và dịch vụ. Năm 2001 xã Khánh Hoà có trên 1.500 lao động tham gia lao động các ngành nghề, dịch vụ như thêu ren xuất khẩu (400 lao động), xay xát, máy làm đất, vận tải nhỏ (130 lao động), mộc, nề, máy khâu, mây tre đan (160 lao động), chế biến lương thực (93 lao động). Đại lý buôn bán tạp phẩm (70 lao động)… sản xuất phát triển góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội trong xã và từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhân dân Khánh Hòa.

Đảng bộ chú trọng đầu tư sự nghiệp giáo dục trước hết là đầu tư cơ sở hạ tầng. 12 phòng học hai tầng của trường tiểu học với tổng kinh phí dự toán ban đầu 833 triệu đã đưa vào sử dụng ngày 20/11/2001.

Các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, giao thông, thuỷ lợi, nội đồng đào đắp, nạo vét được 14.700km3 đất, lắp đặt 32 cống bi, sửa chữa 14 cống đầu mối, mua sắm 1 máy bơm. Trị giá đầu tư phục vụ sản xuất nông nghiệp gần 200 triệu đồng.

Trên lĩnh vực văn hoá xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, công tác thông tin tuyên truyền được duy trì thường xuyên, phục vụ kịp thời các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Trong năm Ban Văn hoá thông tin xã kẻ vẽ được 40 khẩu hiệu, làm 16 băng rôn, 30 pa nô, áp phích, may 130 lá cờ Tổ quốc, đầu tư 10 bộ loa đài cho các xóm, bảo đảm thông tin và điện tiêu dùng cho nông dân. Do hoàn thành nhiệm vụ, tổ công tác thông tin văn hoá Khánh Hoà được UBND huyện tặng Giấy khen.

Phong trào văn nghệ quần chúng được khơi dậy. Xã củng cố xây dựng đội văn hoá và đẩy mạnh phong trào văn nghệ quần chúng phục vụ nhân dân trong xã và dự thi các đợt hội diễn của huyện, của tỉnh tổ chức. Thể dục, thể thao, các tầng lớp nhân dân hoạt động mạnh. Phong trào chạy tập thể dục của các lứa tuổi được duy trì, nhân dân hào hứng tham gia, nhất là lứa tuổi thanh thiếu niên. Xã Khánh Hòa xây dựng các đội bóng đá, bóng chuyền khá sớm. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Khánh Hòa là đội bóng đá mạnh của huyện Yên Khánh, tham gia các đợt dự thi của huyện, cuả tỉnh, đều đạt loại khá trở lên.

Năm 2001, xã Khánh Hòa có 300 gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá cấp tỉnh, 580 gia đình văn hoá cấp huyện, 650 gia đình văn hoá cấp xã.

Sự nghiệp giáo dục được cấp uỷ Đảng, chính quyền quan tâm đúng mức. Đảng bộ tập trung lãnh đạo xây dựng trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Năm học 2000-2001 học sinh thi chuyển lớp, chuyển cấp đều đạt từ 98% trở lên.

Năm học 2001-2002 trường Tiểu học đã huy động được 580 học sinh đến trường, có 18 lớp đạt 200% kế hoạch. Trường trung học sơ sở huy động được 555 học sinh đến trường, 13 lớp ở 4 khối (6,7,8,9); thực hiện chương trình giáo dục toàn diện. Trường Mầm non được Đảng bộ đặc biệt quan tâm. Năm 2001, huy động 236 cháu đến lớp đạt 89% kế hoạch. Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu đảm bảo theo chương trình của ngành. Công tác giáo dục tiếp tục phát triển toàn diện cả về cơ sở vật chất và phục vụ giảng dạy. Thực hiện “học tốt, dạy tốt”, đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng cao chất lượng cả nội dung và phương pháp, nhờ đó các kỳ thi giáo viên giỏi ở một số bộ môn, đội ngũ giáo viên Khánh Hòa đều đạt kết quả tốt.

Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm, các chương trình y tế được thực hiện thường xuyên. Mạng lưới y tế thôn xóm được củng cố đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân. Trong năm xã Khánh Hòa không có dịch bệnh xảy ra.

Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình được cán bộ, đảng viên, nhân dân tham gia hưởng ứng. Trong năm các biện pháp giảm tỷ lệ gia tăng dân số được áp dụng, biện pháp tránh thai 276 ca (kế hoạch giao 203 ca) đạt 135% kế hoạch. Tỷ lệ sinh 1,3% giảm 0,1% so năm 2000. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên là 0,01% giảm so cùng kỳ là 0,5%.

Chương trình xoá đói giảm nghèo được Đảng bộ chú trọng. Chính quyền các đoàn thể nhân dân bám sát chương trình hoạt động. Xã đã giải quyết việc làm cho nhân dân trong xã số tiền gần 1 tỷ đồng.

Phong trào xây dựng quỹ từ thiện được Đảng bộ và nhân dân hưởng ứng quỹ tình nghĩa, quỹ khuyến học, quỹ vì người nghèo, quỹ trẻ thơ… trong năm đã thu được 6.555.000 đồng.

Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã. Trong năm 2001 xẩy ra 48 vụ việc với 92 lượt người, giảm 13% so năm 2000. Nội dung vi phạm chủ yếu là tai nạn giao thông, đánh nhau, tranh chấp dân sự, cờ bạc… số tiền xử lý hành chính thu về cho công dân 13.200.000 đồng, cho tập thể 885.000 đồng. Nhân dân phấn khởi, yên tâm lao động sản xuất.

Công tác quân sự địa phương, xây dựng nền quốc phòng toàn dân được đặt lên hàng đầu. Lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ thường xuyên được củng cố, duy trì, đảm bảo biên chế theo quy định. Có sự hướng dẫn của Huyện đội, công tác quân sự địa phương được tổ chức, kiểm tra, huấn luyện giai đoạn 1 với 42 đồng chí, giai đoạn 2 là 15 đồng chí. Kết quả hội thao năm 2001 xã Khánh Hòa được xếp loại khá. Giao quân cả năm 15 tân binh, đạt 100% kế hoạch. Đăng ký độ tuổi 17 có 62 thanh niên. Thực hiện khám tuyển quân nguồn năm 2002 có 54 người. Kết hợp với lực lượng an ninh giữ gìn trật tự trị an, thực hiện tốt các chính sách hậu phương quân đội.

Năm 2004, năm có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội do Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXI đề ra.

Năm 2004 cũng là năm diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước. Kỷ niệm 74 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và 114 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 60 năm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam. Đặc biệt nước ta tổ chức hội nghị Á - Âu ASEM 5 tại thủ đô Hà Nội. Những sự kiện trọng đại trên tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên, nhân dân Khánh Hòa. Trong quá trình thực hiện phát triển kinh tế, xã hội hoạt động trong môi trường nền kinh tế nhiều thành phần, mặt trái của kinh tế thị trường thường xuyên tác động tới người lao động. Đảng bộ coi trọng công tác tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên, nhân dân. Tập trung quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của các phong trào hành động cách mạng, thực hiện có hiệu quả, thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong năm Đảng bộ tổ chức thành công các hội thi “Bí thư chi bộ giỏi”, “Báo cáo viên giỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh”, phát động cuộc thi tìm hiểu “75 năm lịch sử vẻ vang của Đảng cộng sản Việt Nam”, cuộc thi “Âm vang Điện Biên”. “Sáng mãi phẩm chất bộ đội Cụ Hồ”. Có 80% báo cáo viên tham gia hội thi đạt khá, giỏi và 85% cán bộ đảng viên tham gia các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ và chiến thắng Điện Biên Phủ.

Đảng bộ chú trọng xây dựng phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong sạch, lành mạnh, nêu cao tinh thần trách nhiệm, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về lý tưởng cách mạng của một số ít đảng viên, cán bộ.

Năm 2004, Đảng bộ lãnh đạo các chi bộ tiến hành Đại hội. 14/14 chi bộ trực thuộc Đảng bộ đại hội nhiệm kỳ (2004-2005) thành công. 40 đồng chí tham gia cấp uỷ, tăng 2 cấp uỷ viên so với nhiệm kỳ (2003-2004). Nhận thức đầy đủ về vai trò của đội ngũ cán bộ trong hoạt động thực tiễn, trong phong trào cách mạng. Đảng bộ chú trọng tới công tác cán bộ, công tác đảng viên, tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao trí tuệ. Trong năm, Đảng bộ cử 35 quần chúng ưu tú học lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng; 15 đảng viên học chương trình lý luận chính trị đảng viên mới, 5 đồng chí đi học phổ thông trung học, 17 đồng chí hoàn thành chương trình sơ cấp chính trị.

Đến cuối năm 2004, Đảng bộ có 9 cán bộ đảng viên có trình độ Đại học  (0,34%) tăng 3 đồng chí so với năm 2003. Trình độ cao đẳng 13 đồng chí (chiếm 5%) tăng 1 đồng chí so 2003. Trung cấp chuyên môn nghiệp vụ có 68 đồng chí (chiếm 26,25%).

Trong đợt đổi thẻ đảng viên có 56 đảng viên đổi thẻ đợt 19/5, 140 đảng viên đổi thẻ đợt 2/9 và 32 đảng viên đổi thẻ đợt 7/11.

Đảng bộ tiếp tục tập trung xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Trọng tâm là xây dựng chi bộ, Đảng bộ vững mạnh, nhất là chi bộ thôn, xóm. Nội dung sinh hoạt được đổi mới, nâng cao chất lượng, do đó hiệu quả trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ được nâng cao.

Thực hiện Hướng dẫn số 18 và 20 của Ban Tổ chức Trung ương về đánh giá phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Hướng dẫn số 204 của Ban Thường vụ Huyện ủy Yên Khánh. Đảng ủy chỉ đạo các chi bộ tổ chức thực hiện. 14 chi bộ tham gia phân loại. Kết quả, 7 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh (chiếm 50%), 7 chi bộ hoàn thành nhiệm vụ (chiếm 50%), không có chi bộ yếu. Chi bộ xóm Thuần Đầu hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc được Huyện uỷ khen thưởng, Đảng bộ biểu dương 2 chi bộ xóm Chợ và trường Tiểu học. Tại thời điểm đánh giá, Đảng bộ có 255 đảng viên, dự phân loại có 216 đảng viên. Kết quả phân loại: đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ có 181 đồng chí (chiếm 70.98%), đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ có 24 đồng chí (chiếm 0,94%), đảng viên hoàn thành nhiệm vụ có 31 đồng chí (chiếm 12,15%), đảng viên vi phạm tư cách có 4 đồng chí (0,18%). Công tác phát triển đảng viên được đảng bộ quan tâm. Năm 2004, kết nạp 14 đảng viên, đạt 5,49%. Số đảng viên mới kết nạp có 10 đảng viên nữ (71,12%) và 12 đồng chí là đoàn viên (85,71%).

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân vận kém thì việc gì cũng kém, Dân vận khéo làm việc gì cũng thành công”, các cấp uỷ từ xã đến chi bộ đã chăm lo lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công  tác dân vận,  từng bước đổi  mới nội dung,  phương thức hoạt động kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phát động các phong trào thi đua, thu hút nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chăm lo lợi ích chính đáng của nhân dân. Mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân được tăng cường.

Đảng bộ chăm lo xây dựng khối đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được kiện toàn, củng cố, đổi mới phương thực hoạt động. Nhờ đó tập trung nhân dân đoàn kết phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hoá, tham gia hoạt động từ thiện.

Phát huy truyền thống của dân tộc, “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa liên tục nhiều năm đóng góp các quỹ tình nghĩa, từ thiện đạt kết quả cao. Từ năm 2000 đến 2004 nhân dân trong xã đã ủng hộ các quỹ chăm sóc trẻ thơ, quỹ đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ ngày vì người nghèo, quỹ cứu trợ nạn nhân chất độc da cam… Tổng số tiền là 32.490.000 đồng.       

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001) và chủ trương của Huyện ủy Yên Khánh về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đảng bộ Khánh Hòa từng bước đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn. Đồng thời, chú trọng cải tạo, nâng cấp và phát triển hệ thống giao thông nông thôn. Đường giao thông trong thôn xóm tuy đã được xây dựng, sửa chữa từ những năm trước, song trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, hệ thống giao thông xã Khánh Hòa tiếp tục được nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi.

Đảng bộ lãnh đạo nhân dân đoàn kết thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do đại hội Đảng bộ đề ra. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ các kinh tế, xã hội phát triển, năm sau hoàn thành và hoàn thành vượt mức năm trước, đẩy mạnh phong trào cách mạng đưa xã Khánh Hòa vững bước tiến lên.

Năm 2004, năm thứ 10 sau khi tái lập huyện, với khí thế thi đua lập thành tích chào mừng 10 năm tái lập huyện Yên Khánh, Đảng bộ và nhân dân xã Khánh Hòa hăng hái thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội đạt được nhiều chỉ tiêu, có nhiều chỉ tiêu vượt kế hoạch.

Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, năm 2004, các hợp tác xã thực hiện chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống, đẩy mạnh thâm canh, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Toàn xã gieo trồng được 994 ha, có hệ số quay vòng đất 2,41 lần. Năm suất bình quân 119 tạ/ha. Sản lượng quy thóc đạt 4,347 tấn tăng 133 tấn. Bình quân lương thực đạt 737 kg/người/năm, tăng 3,9%, vụ chiêm năm 2005 đạt 66,2 tạ/ha. Cây lạc chiếm ưu thế, vụ xuân đạt 23,5 tạ/ha, sản lượng 172 tấn, tăng 2,4 tạ/ha so năm 2003 vụ chiêm xuân năm 2005 đạt 173,2 tấn. Đậu tương 23,6tạ/ ha, sản lượng đạt 170 tấn, tăng 5,6tạ/ha so năm 2003 sản lượng tăng 16% so cùng kỳ. Cây trồng vụ đông 2003-2004 có 158 ha, tổng giá trị thu nhập đạt 1,1 tỷ đồng.

Cùng với trồng trọt, chăn nuôi được duy trì và phát triển. Tại thời điểm 1/8/2004 tổng đàn lợn có 4.900 con, tăng 6,5% so cùng kỳ năm 2003. Lợn hơi xuất chuồng đạt 350.000 tấn. Đàn trâu bò 620 con, so cùng kỳ năm 2003 tăng 9,0%. Nhân dân chú trọng chăn nuôi gia cầm, toàn xã đạt khoảng 36.000 con. Nuôi cá 18ha, sản lượng 36 tấn. Tổng giá trị nông nghiệp đạt 18 tỷ đồng. Trong đó giá trị thu được từ chăn nuôi đạt 5 tỷ 900 triệu đồng, tăng 13,4%. Ngành nghề trong nông nghiệp được Uỷ ban nhân dân xã, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ chăm lo mở các lớp dạy nghề, như mây tre đan, làm nấm tạo công ăn việc làm cho nông dân, giải quyết thời gian nông nhàn.

Tiểu thủ công nghiệp và sản xuất vật liệu xây dựng được quan tâm đầu tư. Phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được các đoàn thể tạo điều kiện, các hội viên được vay vốn bằng nhiều dự án. Do được đầu tư vốn, quy mô sản xuất được mở rộng, đẩy mạnh, ngành nghề phát triển. Năm 2004, ngành nghề dịch vụ thường xuyên có 355 hộ tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp, số lao động hoạt động làm việc trong các ngành nghề, dịch vụ là 1.500 người.

Giá trị tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề năm 2004 đạt 5 tỷ 870 triệu đồng, tăng 11,5% cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm (2001-2005) đạt 8,4%, cơ cấu 3 nhóm ngành đến năm 2004 đã đạt: nông nghiệp 65,5%, tiểu thủ công nghiệp: 14,5%, dịch vụ 20%, đạt chỉ tiêu Đại hội nhiệm kỳ 2000-2005 đề ra.

Nông thôn Khánh Hòa không ngừng được đổi mới, giao thông thôn xóm ngày càng được mở rộng, đường trục xã và thôn xóm được bê tông 4.800m, trị giá 820 triệu đồng, thuỷ lợi nội đồng, sửa chữa cầu cống trị giá 60 triệu đồng. Đảng bộ đầu tư sửa chữa trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, nâng cấp đường dây, loa đài, tu bổ trường học trị giá 46 triệu đồng. Tổng đầu tư các công trình trị giá 926 triệu đồng.

Trên lĩnh vực văn hoá, Đảng bộ tập trung chỉ đạo bảo đảm kịp thời thông suốt, nhiều tin bài đưa tin phục vụ nhiệm vụ chính trị của các địa phương. Lực lượng văn hoá thông tin kẻ vẽ panô, áp phích, căng băng zôn tuyên truyền kịp thời các nhiệm vụ kinh tế, chính trị ở địa phương. Công tác thể thao, thể dục được đẩy mạnh.

Xã thành lập đội bóng đá thiếu niên, nhi đồng, đội bóng đá, bóng chuyền thanh niên. Năm 2004, xã Khánh Hòa dự thi bóng chuyền đạt giải Nhất của huyện. Nhân dân thường xuyên tập thể dục nâng cao sức khỏe. Văn hoá - xã hội phát triển. Xã có 8/10 xóm đạt tiêu chuẩn xóm văn hoá cấp huyện. Có 75% hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá cấp xã và 5/10 xóm đạt tiêu chuẩn đơn vị văn hoá cấp tỉnh.

Thấm nhuần quan điểm của Đảng về chiến lược con người, “con người là vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội”, giáo dục là ngành đào tạo, “đáp ứng về nhu cầu con người và nguồn nhân lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”. Đảng bộ Khánh Hòa thường xuyên quan tâm, chú trọng đến sự nghiệp trồng người. Ba cấp học (khoá 2003-2004) đạt chất lượng giáo dục toàn diện. Trường Mầm non huy động 305 cháu đến trường, đạt 100%. Trường Tiểu học huy động được 495 cháu, đạt 100% kế hoạch, phổ cập giáo dục đúng độ tuổi 98%, trẻ em 6 tuổi vào học lớp 1 đạt 100%. Trường THCS huy động 516 học sinh ở 4 khối (khối 6,7,8,9). Chương trình phổ cập giáo dục và chất lượng giáo dục toàn diện tiếp tục được nâng cao

Công tác y tế chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được Đảng bộ quan tâm, duy trì cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và tinh thần phục vụ. Đảng bộ lãnh đạo thực hiện chương trình xã hội hoá về mạng lưới y tế cơ sở. Trạm xá xã được đầu tư nâng cấp, phòng khám bệnh, phòng điều trị, phòng bệnh nhân lưu trú điều trị được tu sửa đảm bảo cho các hoạt khám chữa bệnh; từng bước nâng cao chất lượng điều trị, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm phục vụ của đội ngũ cán bộ y tế. Trạm có vườn thuốc nam, thực hiện đông tây y kết hợp điều trị. Nhờ có đầu tư về cơ sở hạ tầng, đội ngũ y tế xã chăm lo xây dựng phong trào, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giữ gìn y đức, ngày 12/4/2004, xã Khánh Hòa được UBND tỉnh Ninh Bình cấp Bằng công nhận chuẩn quốc gia về công tác y tế.

Đảng bộ tập trung lãnh đạo công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, trẻ em. Coi đây là một trong những biện pháp xoá đói giảm nghèo. Công tác dân số, gia đình, trẻ em là một nhiệm vụ lớn có quan hệ đến phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng con người cả trước mắt và lâu dài. Do công tác truyền thông tốt, trong năm 2004 tổng số các biện pháp áp dụng tránh thai 241 ca, đạt 100% kế hoạch. Tỷ lệ dân số tăng tự nhiên 0,97%. Năm 2004, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa đã huy động được 1.552.000 đồng từ nguồn tự nguyện ủng hộ của cán bộ và nhân dân, 1.900.000 đồng từ ngân sách xã, tổ chức thăm và tặng quà cho các cháu có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là 560.000 đồng. Huy động nhân dân tự nguyện đóng góp xây dựng các quỹ từ thiện 8.467.000 đồng.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) về xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Với tư tưởng chỉ đạo Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, trực tiếp lực lượng vũ trang. Đảng bộ xây dựng Nghị quyết chuyên đề về quốc phòng, an ninh, giáo dục cán bộ đảng viên nhân dân nâng cao cảnh giác cách mạng, cảnh giác với âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên. Hoàn thành kế hoạch huấn luyện hàng năm. Qua kiểm tra 100% học viên đạt yêu cầu, 75% khá giỏi. Công tác giao quân qua các năm đều đạt và vượt chỉ tiêu. Năm 2004, tuyển và giao quân 14 đồng chí, đạt 170% kế hoạch.

Khám tuyển nguồn nhập ngũ năm 2005 có 38 đồng chí, phúc tra lực lượng dự bị động viên 386 đồng chí. Huấn luyện giai đoạn 1 có 35 đồng chí tham dự, kết quả đạt loại giỏi, tham gia dự thi một số môn khác đạt giải nhất toàn đoàn. Tổ chức diễn tập PX-04 năm 2004 đạt kết quả tốt.

Công tác an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được các ngành trong xã phối kết hợp thực hiện. Đảng bộ chỉ đạo lực lượng công an thường xuyên giữ gìn an toàn thôn xóm. Hạn chế thấp nhất các vụ gây rối trật tự xã hội. Trong năm xẩy ra 28 vụ, liên quan 54 lượt người, trộm cắp vặt tài sản công dân, tai nạn giao thông. Cơ sở đã giải quyết xong 27 vụ, với 53 lượt người. So cùng kỳ năm 2003 số vụ giải quyết xong tăng 8 vụ, chiếm 27,5%. Kết quả giải quyết, cơ quan chức năng phạt tiền 3 vụ, cảnh cáo 9 vụ, hoà giải dân sự 13 vụ, cải tạo 1 vụ 2 đối tượng tại khu dân cư, chuyển cấp trên 1 vụ. Thu về cho tập thể và công dân số tiền 10.053.000 đồng. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn trên địa bàn được đảm bảo giữ vững.

Chính sách xoá đói giảm nghèo được cấp uỷ tập trung chỉ đạo. Hàng năm hộ nghèo giảm đáng kể, năm 2005 còn 4,1% (năm 2001 chiếm 9,7%); hộ giầu khá tăng (năm 2005 hộ giầu chiếm 23,5%; hộ khá chiếm 38%). Đời sống nhân dân được cải thiện cả vật chất, tinh thần. Toàn xã có 35% số hộ có nhà kiên cố, 65% số hộ có nhà bán kiên cố, 100% số hộ sử dụng điện thắp sáng, 87% hộ có ti vi, 52 hộ có xe máy (tăng 15 lần so năm 2001).

Công tác xây dựng Đảng được Đảng bộ quan tâm. Cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII; Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khoá IX) được triển khai sâu rộng trong toàn Đảng bộ và cán bộ trong các ngành, đoàn thể.

Thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 6/12/2004 của Bộ Chính trị; Kế hoạch số 58-KH/TU, ngày 10/3/2005 của Tỉnh ủy Ninh Bình; Kế hoạch số 69-KH/HU, ngày 24/3/2005 của Huyện ủy Yên Khánh về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, trong hai ngày 01 và ngày 02/8/2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Khánh Hòa lần thứ XXII (nhiệm kỳ 2005-2010) được tổ chức, tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã. Dự Đại hội có 119 đại biểu thay mặt cho 240 đảng viên toàn Đảng bộ. Đại hội đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong 5 năm (2000-2005), đề ra phương hướng mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu trong 5 năm (2005-2010) nhằm phát huy cao nhất sức mạnh đảng bộ và nhân dân trong xã. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.

Đại hội tập trung trí tuệ đề ra mục tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ 2005-2010 là:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 9,5%/năm

- Cơ cấu kinh tế đến năm 2010 là: nông nghiệp 50%, TTCN xây dựng: 23%, ngành nghề dịch vụ 27%.

- Sản lượng lương thực bình quân đạt: 4.280 tấn/năm

- Đưa vụ đông thành vụ chính (đến năm 2010 có 50% diện tích làm vụ đông, giá trị canh tác trên 1 ha gieo trồng đạt 38 triệu đồng)

- Thu ngân sách trên địa bàn đạt 9%.

- Giá trị thu nhập đầu người đến năm 2010 đạt 7.800.000 đồng/năm

- Mức sinh hàng năm giảm 0,3%, trẻ duy dinh dưỡng giảm dưới 20%

- Đến năm 2010 cơ bản xoá được hộ nghèo (tiêu chí mới), 95% hộ dùng nước sạch, 85% gia đình và 80% số xóm, cơ quan đạt tiêu chuẩn văn hoá, 80% số xóm có nhà văn hoá.

- Tăng cường quốc phòng, an ninh trật tự thôn xóm, an toàn xã hội

- Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu lực quản lý đạt 80% chi bộ trong sạch vững mạnh và 80% chính quyền và đoàn thể vững mạnh.

    Đại hội bầu Ban chấp hành gồm 15 uỷ viên. Ban Chấp hành bầu Ban Thường vụ gồm 05 đồng chí. Đồng chí Phan Văn Dân được bầu làm Bí thư, đồng chí Trịnh Thị Mậu và đồng chí Nguyễn Văn Dương được bầu làm Phó bí thư.

Đại hội Đảng bộ (2005 - 2010) thành công, cán bộ, đảng viên, nhân dân phấn khởi bắt tay ngay vào thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội Đại hội đề ra.

Giai đoạn này, Khánh Hòa vẫn là xã có nền sản xuất thuần nông, điểm xuất phát đi lên còn thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, mặt trái cơ chế thị trường tác động đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn không nhỏ đến công tác quản lý xã hội, quản lý kinh tế. Giá cả vật tư nông nghiệp biến động, tăng cao nhất là mặt hàng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp.

Bám sát thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, Đảng ủy nêu cao vai trò thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy tốt nhất sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ và nhân dân, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn thử thách thực hiện có hiệu quả kinh tế - xã hội.

Trước hết Đảng uỷ tập trung lãnh đạo đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp mạnh dạn chuyển dịch 3 nhóm ngành cơ bản theo hướng tăng tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, giảm nông nghiệp. Ngay từ cuối năm 2005, Khánh Hòa áp dụng mạnh mẽ tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, đưa giống cây, con mới có năng suất và giá trị kinh tế cao vào sản xuất; coi trọng thâm canh, tăng năng suất. Các loại phương tiện phục vụ sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển mạnh, góp phần giải phóng sức lao động con người mang lại hiệu quả kinh tế cao như máy cày, máy bừa, máy tuốt lúa, máy xát, máy bơm nước dã chiến, máy sản xuất vật liệu xây dựng, các loại xe vận chuyển… Toàn xã có trên 300 đầu máy các loại phục vụ sản xuất, kinh doanh. Các giống lúa cao sản, lúa chất lượng cao được đưa vào sản xuất, đến năm 2009 đạt 60% diện tích. Hoạt động của 3 HTX nông nghiệp đã có cố gắng, cơ bản chủ động trong 3 khâu dịch vụ phục vụ sản xuất cho hộ nông dân như tiêu, tưới, phòng trừ sâu bệnh, thủy lợi nội đồng và điều hành khâu làm đất.

Từ năm 2005 đến năm 2010, sản xuất nông nghiệp của xã liên tục được mùa. Năng suất lúa từ 98,3 tạ/ha năm 2005 lên 112 tạ/ha năm 2009. Trình độ thâm canh của các hộ nông dân được nâng lên đồng đều hơn. Diện tích gieo trồng các giống lúa cao sản, lúa chất lượng cao đạt 60% diện tích; sản lượng lương thực có hạt các năm đều tăng. Phương châm vụ đông là vụ sản xuất chính, Đảng ủy chỉ đạo quy hoạch vùng sản xuất vụ đông đến năm 2010. Sản xuất vụ đông hàng năm đạt từ 238-275 ha  (= 45% diện tích). Một số cây trồng có hiệu quả kinh tế cao như: Đậu tương, ngô ngọt, khoai tây sạch được đưa vào sản xuất chính trong vụ đông; sản xuất nấm bước đầu đã đưa vào sản xuất với quy mô vừa và nhỏ.

Chăn nuôi ổn định, từng bước phát triển theo mô hình kinh tế trang trại. Đến năm 2010, toàn xã có 25 mô hình chăn nuôi lợn trang trại, quy mô từ 150-200 con/năm; thu nhập bình quân đạt từ 100-150 triệu đồng/năm. Những năm 2006-2007 bệnh dịch gia súc, gia cầm nhiều nơi bùng phát (trâu bò lở mồm, long móng, gia cầm bị cúm A/H5N1). Do làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh, tiêm phòng kịp thời cho gia súc, gia cầm, củng cố, sửa chữa chuồng trại, chăm sóc tốt, do đó không có dịch bệnh xảy ra. Đàn trâu bò có 503 con; đàn lợn có 4.580 con, đàn gia cầm, thuỷ cầm có 23.000 con. Toàn xã có 12,3 ha ao nuôi thả cá. Năm 2008, giá trị thu nhập từ chăn nuôi đạt 6 tỷ 410 triệu đồng, đạt 97,8% kế hoạch.

Công tác thủy lợi, phòng chống bão lụt, quản lý đất đai, quản lý tài nguyên môi trường, quy hoạch sử dụng đất thực hiện cơ bản theo quy định của pháp luật. Hoàn thành việc đo đạc hiện trạng sử dụng đất để cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp như hệ thống kênh tưới, kênh tiêu, cống đầu mối ngăn nước ngoại lai và thoát nước úng, hệ thống thủy lợi nội đồng cơ bản đáp ứng yêu cầu cho sản xuất nông nghiệp. 3 HTX nông nghiệp huy động xã viên ra quân làm thuỷ lợi nội đồng được 14.119 m3. Trong đó nạo vét 12.091m3 kênh mương, đào đắp bờ vùng bờ thửa 2.628m3. Đầu tư 150 triệu đồng xây đắp kiên cố hoá kênh mwong, 240.834.000 đồng xây 10 cống.

Do làm tốt công tác thuỷ lợi, phương pháp canh tác hợp lý, sản xuất trồng trọt ổn định và phát triển, năng suất, sản lượng năm sau cao hơn năm trước. Giá trị sản phẩm trên 1 ha đất canh tác năm 2005 đạt 24 triệu đồng đến năm 2009 đạt 53,7 triệu đồng, tăng 29,7 triệu đồng. Tổng giá trị sản xuất của ngành trồng trọt năm 2005 đạt 9,4 tỷ đồng; năm 2009 đạt 20,08 tỷ đồng, tăng 10,68 tỷ đồng. Giá trị sản xuất nông nghiệp, thủy sản năm 2005 tăng 3%; năm 2009 tăng 17,8% bình quân hàng năm tăng 9,8%.

Cùng với quan tâm chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, Đảng bộ chú trọng lãnh đạo khắc phục tình trạng thuần nông, đầu tư cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn. Từ năm 2006, Đảng uỷ chỉ đạo đẩy mạnh phát triển thủ công nghiệp, dịch vụ, đa dạng hoá ngành nghề, dịch vụ, mở rộng và tìm kiếm thị trường, giải quyết việc làm cho người lao động. Đến năm 2010, xã Khánh Hòa có gần 300 hộ hoạt động trong các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ cơ khí nhỏ, mộc nề, đan lát; có trên 150 hộ hoạt động các ngành thương nghiệp, 36 hộ làm dịch vụ vận tải, 1 cơ sở gạch nung, 2 cơ sở sản xuất vôi củ, 2 cơ sở sản xuất gạch xỉ vôi… Đảng bộ chú trọng đẩy mạnh khôi phục làng nghề truyền thống, đẩy mạnh phát triển ngành nghề mới (vật liệu sản xuất đồ gỗ, chế biến lương thực thu hút hàng ngàn lao động trong xã). Giá trị tiểu thủ công nghiệp - ngành nghề năm 2005 đạt 6,9 tỷ đồng, đến năm 2009 đạt 12,9 tỷ. Xã tư vấn tạo điều kiện cho 5 người đi lao động nước ngoài.

Hoạt động dịch vụ có bước phát triển khá, mạng lưới ngày càng được mở rộng. Chất lượng dịch vụ được nâng lên, sản phẩm dịch vụ hàng hóa ngày càng đa dạng, phong phú, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống.

Mạng lưới thông tin liên lạc được phát triển. Đến năm 2010, trên địa bàn xã có 85% số hộ dùng điện thoại. Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động có hiệu quả. Nguồn vốn huy động trên địa bàn xã ngày càng tăng; năm 2005 là 4 tỷ 180 triệu đồng, đến năm 2009 đạt 10 tỷ 540 triệu đồng, tăng 6 tỷ 360 triệu đồng; dư nợ cho vay năm 2005 là: 5 tỷ 483 triệu đồng, năm 2009 lên 16 tỷ 316 triệu đồng, tăng 10 tỷ 833 triệu đồng. Trong 5 năm (2005-2009), Quỹ tín dụng nhân dân đã cho trên 3.463 lượt khách hàng vay với số vốn 70,9 tỷ đồng, đáp ứng nhu cầu sản xuất, chăn nuôi và kinh doanh. Doanh nghiệp điện hoạt động kinh doanh đảm bảo theo đúng quy định của Nhà nước, đảm bảo cung ứng đủ điện sinh hoạt cho nhân dân và phục vụ kịp thời cho sản xuất.

Các loại hình dịch vụ Bảo hiểm nhân thọ, Bảo Việt, bảo hiểm y tế tự nguyện phát triển rộng được nhân dân hưởng ứng. Tỷ lệ người tham gia các loại hình bảo hiểm đạt trên 40%.

Giá trị dịch vụ năm 2005 đạt 4,6 tỷ đồng; đến năm 2010 đạt trên 10 tỷ đồng. Tốc độ tăng giá trị dịch vụ bình quân 5 năm 2005-2010 là 22,7%.

Công tác quản lý thu chi ngân sách được thực hiện nghiêm theo các quy định của nhà nước. Tổng thu ngân sách trong 5 năm (2005-2009) đạt 14 tỷ 722 triệu đồng. Trong đó thu nhân dân đóng góp 842 triệu đồng; thu bổ sung cân đối ngân sách: 2 tỷ 237 triệu đồng; thu bổ sung có mục tiêu của nhà nước: 3 tỷ 819,7 triệu đồng, khai thác nguồn thu trên địa bàn: 7,8 tỷ đồng. Hoàn thành chỉ tiêu đóng góp cho Nhà nước đạt 100% kế hoạch. Tổng chi ngân sách trong 5 năm (2005-2009) là 14 tỷ 722 triệu đồng. Trong đó chi đầu tư 7 tỷ 099 triệu; chi thường xuyên 7 tỷ 623 triệu.

Nhằm tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển, Đảng ủy quan tâm huy động các nguồn lực để đầu tư xây dựng, tăng cường cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng.

Từ năm 2005-2009 tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn đạt trên 10 tỷ đồng. Trong đó, Nhà nước hỗ trợ 3 tỷ 819 triệu đồng, nhân dân đóng góp 842 triệu đồng, ngân sách địa phương 5,4 tỷ đồng, chủ yếu bằng nguồn đấu giá quyền sử dụng đất, cho thuê đất trên địa bàn xã. Đầu tư xây dựng 2 khu trường Mầm non, nhà văn hóa xã, đường giao thông, hệ thống công trình thủy lợi, tu sửa trường học, trạm y tế.

Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, Đảng bộ tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Chú trọng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về lĩnh vực văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống được. Cuộc vận động toàn dân “Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, xây dựng thôn xóm, gia đình văn hóa, xóa đói giảm nghèo, phòng chống tai, tệ nạn xã hội, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có nhiều tiến bộ. Đến năm 2009, trên địa bàn xã có 82% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, tăng 16,7%; có 90% xóm đạt danh hiệu làng văn hóa. Trong đó có 5 xóm đạt danh hiệu làng văn hóa cấp tỉnh, tăng 40%. Các hoạt động tuyên truyền, cổ động bằng hình thức thông tin trực quan như kẻ vẽ pa nô, khẩu hiệu, băng zôn được tổ chức thường xuyên, kịp thời phục vụ các sự kiện chính trị của đất nước, của địa phương.

Phong trào thể dục thể thao rèn luyện sức khỏe được đẩy mạnh. Trong 5 năm (2005-2010), xã đã tổ chức thành công 2 kỳ Đại hội thể dục, thể thao với nhiều nội dung thi đấu như bóng đá, bóng chuyền, điền kinh… đạt kết quả tốt. Các hoạt động thể dục, thể thao chào mừng các ngày lễ lớn của dân tộc được diễn ra sôi nổi, thiết thực và hiệu quả. Thông qua đó, góp phần thúc đẩy phong trào rèn luyện thể dục, thể thao thường xuyên của nhân dân. Xã đã hoàn thành quy hoạch sân thể thao phổ thông của xã và điểm văn hóa, sân thể thao, điểm vui chơi của trẻ em ở 10 xóm.

Công tác giáo dục đào tạo được Đảng bộ quan tâm thường xuyên. Cuộc vận động “nói không với tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục” được thầy và trò thực hiện có hiệu quả trong các cấp học, trường học. Hàng năm, huy động 65% các cháu trong độ tuổi đến nhà trẻ; 90% các cháu trong độ tuổi mẫu giáo đến trường, 100% học sinh tốt nghiệp Tiểu học vào học THCS. Số học sinh tốt nghiệp THCS vào học THPT đạt trên 70%; hàng năm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các bậc học tỷ lệ đạt 95-98%. Tiểu học đạt trên 98%; THCS đạt trên 97%. Số lượng học sinh giỏi ở các bậc học đều tăng. Năm học 2009-2010, có 45 em học sinh giỏi cấp tỉnh và huyện. Hằng năm, có 30 - 40 học sinh thi đỗ vào các trường Đại học và Cao đẳng. Xây dựng 1 trường đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn 1, hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng được duy trì thường xuyên.

Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân được đảm bảo, các chương trình quốc gia về  y tế, dân số gia đình trẻ em Đảng uỷ chỉ đạo thực hiện kịp thời hiệu quả. Các chương trình quốc gia về y tế, công tác phòng dịch, bệnh được quan tâm. Hàng năm không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn. Cơ sở vật chất và đội ngũ y Bác sỹ của Trạm y tế đã đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân và đối tượng BHYT trên địa bàn xã. Trong 5 năm (2005-2009) đã có 58,469 lượt người được khám và điều trị bệnh tại trạm y tế xã. Công tác tuyên truyền vận động thực hiện chính sách DS-KHHGĐ được quan tâm chỉ đạo, chất lượng dân số được nâng lên, tỷ lệ sinh hàng năm giảm dần, tỷ lệ nữ đi khám bệnh phụ khoa tăng. Tỷ lệ sinh năm 2005  là 14,75%; năm 2009 là 14,65‰. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên năm 2005 là 11%. Năm 2009 là 9%, giảm 2%.

Trong công tác vệ sinh môi trường, Đảng ủy chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện đề án thu gom, xử lý rác thải của xã; triển khai thực hiện từng bước đề án vệ sinh môi trường theo kế hoạch. Năm 2009 xã đã được huyện hỗ trợ dự án vệ sinh môi trường, đầu tư phương tiện vận chuyển rác thải và bảo hộ lao động, đưa vào thực hiện trên địa bàn xã vào năm 2010, bước đầu đạt kết quả khá được nhân dân đồng tình phấn khởi.

Chương trình xóa đói giảm nghèo được tập trung chỉ đạo thực hiện và đạt kết quả rõ nét. Đời sống nhân dân được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Thu nhập bình quân đầu người năm 2009 đạt 8,4 triệu đồng. Trong 2 năm 2008 - 2009, đã tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TU, ngày 15/10/2007 của Tỉnh ủy về “Tăng cường lãnh đạo đối với công tác giảm nghèo đến năm 2010” và Đề án số 02 của Hội đồng nhân dân tỉnh về “Hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ chính sách khó khăn về nhà ở giai đoạn 2008 - 2009”. Bằng nguồn vốn của tỉnh, của huyện và địa phương huy động đã xây dựng mới 1 nhà tình nghĩa, làm mới 02 nhà, sửa chữa, nâng cấp 10 nhà cho gia đình chính sách, hộ nghèo với số tiền trên 250 triệu đồng. 100% hộ sử dụng điện sinh hoạt, 97% hộ có tivi, 72% hộ có xe máy tăng gấp 2,5 lần so với năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2006 là 12,8% năm 2009 là 7,5%.

Các chính sách xã hội được quan tâm chỉ đạo đảm bảo đúng đối tượng . Toàn xã có trên 380 đối tượng được xem xét đề nghị hưởng chế độ theo quy định của Nhà nước.

Cuộc vận động xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” và các quỹ từ thiện nhân đạo khác đã được các cấp, các ngành và nhân dân hưởng ứng. Trong 5 năm (2005-2010) đã vận động được 47 triệu đồng vào các quỹ nhân đạo từ thiện, 680 lượt hộ nghèo, được hỗ trợ gần 14 tấn gạo và trên 70 triệu đồng; 1.100 lượt gia đình chính sách, được động viên thăm hỏi với số tiền 73 triệu đồng. Trong 3 năm (2007-2009), chị Phan Thị Bích Hằng, giảng viên khoa kinh tế đối ngoại, Trường Đại học Khoa học - Công nghệ Hà Nội đã ủng hộ 540 lượt hộ nghèo, hộ gia đình chính sách với số tiền hơn 186 triệu đồng, tặng trên 500 chăn ấm, áo ấm cho hộ nghèo và người cao tuổi nghèo trị giá trên 75 triệu đồng, hỗ trợ trên 100 triệu đồng xây dựng 2 phòng máy vi tính cho 2 trường Tiểu học và THCS, MTTQ và các tổ chức đoàn thể đã tặng 13 sổ tình nghĩa trị giá mỗi sổ từ 100.000 đồng - 200.000 đồng cho các đối tượng chính sách, gia đình đoàn viên, hội viên nghèo, trẻ mồ côi...

Cùng với phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, Đảng ủy triển khai thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết về công tác an ninh quốc phòng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc được phát huy, trong đó lực lượng công an là nòng cốt. Tiếp tục thực hiện Nghị định 79/2003/NĐ-CP, ngày 07/7/2003 của Chính phủ về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ở xã. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, của chính quyền, MTTQ và các đoàn thể, của cán bộ, Đảng viên và trong việc tôn trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã ổn định. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm được tăng cường, việc xử lý vi phạm đảm bảo đúng quy định. Công tác quản lý hộ tịch hộ khẩu, đăng ký tạm trú, tạm vắng đã được thực hiện có nề nếp. Công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm đơn thư của công dân, không để đơn thư tồn đọng, kéo dài, vượt cấp.

Các hoạt động tôn giáo được đảm bảo đúng chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là thực hiện nghiêm Nghị định 22/2005/NĐ-CP, ngày 01/3/2005 về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.

Công tác quốc phòng địa phương được triển khai toàn diện. Đảng ủy thường xuyên chăm lo củng cố lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên, hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân hàng năm. Trong 5 năm, xã có 56 thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ. Các phương án tác chiến, phòng thủ, diễn tập quốc phòng, phòng chống bão lụt được triển khai đạt kết quả. Hàng năm hoàn thành công tác diễn tập hội thao đạt kết quả khá.

Cùng với phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, Đảng bộ xã xác định phải xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đủ khả năng lãnh đạo nhân dân xây dựng và phát triển quê hương. Công tác xây dựng Đảng được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo toàn diện trên mọi mặt. Đảng ủy tập trung chỉ đạo tổ chức quán triệt, học tập kịp thời và đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, huyện đến cán bộ, đảng viên và nhân dân như Quyết định số 23-QĐ/TW ngày 31/10/2006 về Quy định thi hành Điều lệ Đảng (khóa X), Quyết định số 25-QĐ/TW về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, các Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương về nông nghiệp, nông thôn và nông dân,…

Đặc biệt, thực hiện Chỉ thị 06-CT/TW ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị về “Tổ chức cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Đảng ủy đã tổ chức quán triệt sâu rộng và nghiêm túc trong toàn Đảng bộ, từng bước đưa cuộc vận động đi vào chiều sâu, chú trọng làm theo tấm gương của Bác để tạo chuyển biến rõ nét hơn trên các lĩnh vực. Tổ chức quán triệt các nội dung chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh từ năm 2006-2010 đến 100% cán bộ, đảng viên. Sau mỗi đợt học tập theo chuyên đề, cán bộ, đảng viên viết bản thu hoạch, tự liên hệ bản thân và đăng ký phấn đấu rèn luyện. Trong quá trình triển khai thực hiện cuộc vận động, Đảng ủy đã tổ chức các hình thức tuyên truyền học tập sinh động như: tổ chức cuộc thi “Kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” (năm 2008), tuyên truyền trên hệ thống loa truyền thanh của xã. Sau 4 năm triển khai thực hiện cuộc vận động, nhận thức, tư tưởng, lối sống, tinh thần trách nhiệm, gương mẫu của cán bộ, đảng viên và gia đình đảng viên trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật của Nhà nước được nâng lên, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng.

Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng bộ xã Khánh Hòa xác định, cán bộ và công tác cán bộ là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đã tiến hành kiện toàn các chức danh trưởng, phó Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cấp xã theo đúng quy trình, đảm bảo nguyên tắc, điều lệ; kiện toàn 16 Ban chi ủy, thay thế 1 Chủ nhiệm, 1 Phó chủ nhiệm, 1 Trưởng kiểm soát HTX nông nghiệp và 5 Bí thư chi bộ. Năm 2007, Đảng uỷ tiến hành rà soát, xây dựng quy hoạch các chức danh trong công tác cán bộ giai đoạn 2005-2010, giai đoạn 2010 - 2015 theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Huyện uỷ. Thực hiện Nghị định 121/2003/NĐ-CP, ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn, Đảng ủy đã chỉ đạo rà soát đề nghị UBND huyện Quyết định xếp chuyển 20 chức danh cán bộ công chức cấp xã, tuyển dụng 8 chức danh công chức xã, bố trí 19 chức danh bán chuyên trách.

Nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng vừa chuyên”, trong 5 năm (2005-2010), Đảng ủy đã cử 250 lượt cán bộ lãnh đạo từ xã đến cơ sở đi bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ Trung tâm bồi dưỡng chính trị Huyện; có 07 đồng chí hoàn thành Trung cấp chính trị, 45 đồng chí học lý luận chính trị phổ thông, 29 đồng chí học Sơ cấp chính trị, 37 đồng chí học Cao đẳng, Đại học và Trung cấp chuyên môn. Do đó, chất lượng đội ngũ cán bộ được nâng lên, trình độ chuyên môn của Ban Chấp hành Đảng ủy tăng 4,5%; trình độ Trung cấp chính trị tăng 2,5% so với đầu nhiệm kỳ. Tỷ lệ cán bộ nữ tăng lên, nữ cán bộ chủ chốt chiếm tỷ lệ 33%, tỷ lệ nữ là trưởng các ban ngành, đoàn thể chiếm 43%. Bí thư chi bộ là nữ là 43,75%, tăng 22% so với đầu nhiệm kỳ.

Nhằm đảm bảo sự kế thừa và phát triển liên tục của Đảng, Đảng bộ xã luôn quan tâm đến công tác phát triển Đảng, trong đó, chú trọng cả số lượng và chất lượng. Từ năm 2005 đến 2009, đã kết nạp được 52 đảng viên mới, đạt 108% kế hoạch (tăng 0,8% so với mục tiêu Đại hội). Trong đó 95% đảng viên trẻ dưới 30 tuổi; đảng viên nữ 24 đồng chí (chiếm tỷ lệ 46%).

Công tác xây dựng Đảng bộ, Chi bộ trong sạch vững mạnh được cấp ủy thường xuyên quan tâm. Đến tháng 2/2010, Đảng bộ có 308 đảng viên sinh hoạt ở 16 chi bộ. Thực hiện Quyết định số 223-QĐ/HU của Huyện ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy đã chỉ đạo thực hiện quy chế đánh giá cán bộ công chức hàng năm, việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình giữa nhiệm kỳ đối với cấp ủy và cán bộ lãnh đạo quản lý cũng như thực hiện tự phê bình và phê bình hàng năm khá nghiêm túc có chất lượng, có nề nếp. Phân loại chất lượng đảng viên, năm 2005 tỷ lệ đảng viên đạt xuất sắc là 9,77%, năm 2009 là 12,78%. Năm 2006, có 11/14 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh đạt tỷ lệ 78,57%. Năm 2009, có 14/16 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh đạt tỷ lệ 87,50%, không có chi bộ yếu kém.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được tập trung chỉ đạo, những ý kiến, kiến nghị, đề xuất của cán bộ, đảng viên được tập trung giải quyết có hiệu quả. Tình hình thời sự, chính sách của Đảng, Nhà nước được phổ biến kịp thời đến cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã.

Đảng ủy coi trọng việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo điều 30 Điều lệ Đảng; Quyết định số 25-QĐ/TW, ngày 24/11/2006, của Bộ Chính trị về “Ban hành Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng” và Quyết định số 58 của Bộ Chính trị “Về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ”. Trong nhiệm kỳ, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy đã tiến hành 105 cuộc kiểm tra, 11 cuộc giám sát, trong đó có 19 cuộc kiểm tra tổ chức Đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Xử lý kỷ luật 7 đảng viên với các hình thức: Cách chức 02 đồng chí, khiển trách 02 đồng chí, phê bình 01 đồng chí, xóa tên khỏi danh sách 02 đồng chí. Các cuộc kiểm tra của Đảng ủy đã góp phần tích cực vào việc giáo dục, ngăn ngừa vi phạm trong cán bộ, đảng viên và các tổ chức Đảng, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật của Đảng.

Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ chỉ đạo tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII và Hội đồng nhân dân các cấp thành công tốt đẹp. Hoạt động của HĐND được nâng lên, ban hành nhiều Nghị quyết quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết kịp thời những vấn đề đặt ra của địa phương và các kiến nghị của cử tri. Nội dung hoạt động của Hội đồng nhân dân có sự đổi mới, vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân trên các lĩnh vực được tăng cường.

Ủy ban nhân dân xã không ngừng đổi mới về phương thức quản lý, điều hành có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh theo Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh, trong đó tập trung cải cách theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian giải quyết công việc cho tổ chức, công dân, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”.

Công tác dân vận được Đảng ủy quan tâm chỉ đạo. Tăng cường vai trò công tác dân vận của chính quyền trong việc vận động nhân dân tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, chú trọng xây dựng mô hình dân vận khéo, các điển hình tiên tiến, quan tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ mặt trận và các đoàn thể. Phát triển đoàn viên hội viên, xây dựng các chi hội, chi đoàn vững mạnh, giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tham gia các phong trào nhân đạo từ thiện, xây dựng cuộc sống văn hóa.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ngày càng được đẩy mạnh. Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp động viên nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Vận động nhân dân thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và các cuộc vận động từ thiện nhân đạo, Quỹ “Ngày vì người nghèo”, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh.

Đoàn Thanh niên tiếp tục thực hiện có hiệu quả phong trào “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước”. Quan tâm bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, truyền thống đạo đức cho đoàn viên thanh niên. Xung kích trên mặt trận phòng chống ma túy và các tai tệ nạn xã hội. Làm tốt công tác thiếu niên nhi đồng, số đoàn viên được kết nạp vào Đảng hàng năm đều tăng.

Hội Phụ nữ xã đã tập trung đẩy mạnh hoạt động phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và 6 chương trình công tác trọng tâm với những nội dung hình thức thiết thực. Tổ chức hội ngày càng được quan tâm củng cố, nhất là chất lượng hoạt động của chi hội cơ sở. Tỷ lệ phụ nữ và hội viên đạt 3 tiêu chuẩn của phong trào hàng năm đều tăng.

Hội Nông dân xã đã phát huy vai trò tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới. Phong trào sản xuất kinh doanh giỏi được đẩy mạnh, xuất hiện ngày càng nhiều mô hình nông dân vươn lên làm giàu từ lao động. Phong trào xây dựng chi hội 4 tốt, hội viên 6 chuẩn mực, cán bộ 2 giỏi có những chuyển biến tích cực.

Hội Cựu chiến binh xã đã tăng cường tuyên truyền giáo dục truyền thống và lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ. Quan tâm giáo dục chính trị tư tưởng cho hội viên, đấu tranh với những quan điểm sai trái, phát huy vai trò gương mẫu của hội viên, giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo.

II. Đảng bộ lãnh đạo xây dựng nông thôn mới (2010-2022)

Năm 2010, sau gần 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng với sự chuyển mình của đất nước, Đảng bộ và nhân dân xã Khánh Hòa cũng đạt được kết quả tương đối toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Tình hình kinh tế - xã hội của xã Khánh Hòa có những thay đổi cơ bản, đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm, số hộ khá giả tăng, nhân dân ngày càng được thụ hưởng đời sống văn hoá tinh thần phong phú đa dạng hơn. Những kết quả đạt được có ý nghĩa tiền đề quan trọng, tạo đà cho Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa bước vào thời kỳ xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, văn minh.

 Thực hiện Chỉ thị số 37/CT-TW, ngày 04/8/2009 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và sự chỉ đạo của Huyện uỷ Yên Khánh, trong hai ngày 22 và 23/4/2010), đại hội Đảng bộ xã Khánh Hòa lần thứ XXIII được tổ chức tại hội trường UBND xã với sự tham dự của 129 đại biểu. Đại hội tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXII và đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong 5 năm (2010-2015).

Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXII, Đại hội đề ra phương hướng chung cho nhiệm kỳ 2010-2015 là: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ. Tăng cường đoàn kết, mở rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương, phát huy lợi thế của địa phương, huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát triển, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tập trung phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ, phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện, sản xuất hàng hóa, hiệu quả, bền vững; Nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa - xã hội, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, giảm các tai, tệ nạn xã hội, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; Nâng cao trách nhiệm và năng lực, chỉ đạo, điều hành, sự phối hợp giữa các ngành xây dựng xã Khánh Hòa vững về quốc phòng an ninh, văn hóa - xã hội tiên tiến, kinh tế phát triển.

Đại hội xác định các mục tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ 2010 - 2015:

1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đến năm 2015 đạt 40%; công nghiệp tiểu thủ công nghiệp - xây dựng 31%; Dịch vụ 29%.

2. Sản lượng lương thực có hạt bình quân 4.500 tấn/năm

3. Đưa vụ đông trở thành vụ sản xuất chính. Phấn đấu sản xuất vụ đông trên đất 2 lúa đạt 50% DT trở lên.

4. Hoàn thành kế hoạch thu, chi ngân sách cấp trên giao

5. Đầu tư cơ sở vật chất xây dựng 2 trường Mầm non và THCS đạt chuẩn quốc gia; Từng bước nâng tuyến đường trục xã từ Chợ Dầu vào xóm Ngoại.

6. Đến năm 2015 có 100% gia đình dùng nước sạch; Mức giảm sinh hàng năm là: 0,02‰ tỷ lệ trẻ em SDD dưới 5 tuổi là 20%.

7. Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2015 còn 3% (theo chi chí mới); 85% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, 80% xóm đạt danh hiệu làng văn hóa.

8. Tăng cường Quốc phòng, đảm bảo an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để phát sinh các tệ nạn xã hội. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền.

9. Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, chính quyền và các đoàn thể vững mạnh, 80% chi bộ trong sạch vững mạnh; làm tốt công tác kết nạp đảng viên mới.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa XXIII gồm 15 đồng chí. Tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ xã bầu Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Hùng được bầu là Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Dương và đồng chí Vũ Văn Luận được bầu là Phó Bí thư.

Ngay sau thành công của Đại hội Đảng bộ xã, Đảng bộ và nhân dân trong xã hăng hái bắt tay vào thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Công tác lãnh đạo thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực. Thực hiện Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2020, Đảng ủy xã Khánh Hòa đã bám sát nội dung các văn bản chỉ đạo, điều hành xây dựng nông thôn mới của các cấp; tổ chức học tập, quán triệt sâu rộng tới toàn thể cán bộ, Đảng viên và nhân dân nhằm tuyên truyền phổ biến nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ và nhân dân trong công tác xây dựng nông thôn mới trên địa bàn. Tập trung xây dựng các Kế hoạch, Quy hoạch, Đề án xây dựng nông thôn mới của xã giai đoạn 2010-2015, định hướng đến năm 2020 trình UBND huyện phê duyệt.

Ngày 04/11/2011, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/ĐU về việc lãnh đạo tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã giai đoạn 2011-2020. Hội đồng nhân dân xã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-HĐND ngày 21/12/2011 về việc phê duyệt tờ trình xây dựng nông thôn mới xã Khánh Hòa giai đoạn 2011-2015. Uỷ ban nhân dân xã xây dựng Kế hoạch về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015 và Phương án dồn điền đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp gắn với chỉnh trang đồng ruộng trên địa bàn xã. Uỷ ban MTTTQ xã ban hành Nghị quyết về việc công nhận Ban giám sát đầu tư cộng đồng XD nông thôn mới.

Cùng với việc thông qua chủ trương, Đảng ủy chỉ đạo thành lập và kiện toàn Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới gồm 22 đồng chí do đồng chí Bí thư Đảng ủy làm Trưởng ban chỉ đạo. UBND xã ban hành quyết định thành lập Ban quản lý xây dựng nông thôn mới gồm 11 đồng chí do đồng chí Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban và Ban hành các Quyết định thành lập 10 Ban phát triển thôn, mỗi ban gồm 7 đồng chí do các đồng chí Bí thư chi bộ - Trưởng ban công tác Mặt trận ở xóm làm Trưởng ban. Ban chỉ đạo, Ban quản lý xây dựng NTM xã Khánh Hòa đã ban hành quy chế hoạt động, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên Ban chỉ đạo, Ban Quản lý phụ trách từng lĩnh vực, từng địa bàn khu dân cư. Các thành viên Ban quản lý thường xuyên phối hợp với Ban giám sát cộng đồng, ban phát triển thôn kiểm tra, giám sát, đôn đốc, hướng dẫn cơ sở như: cấp xi măng, giải phóng mặt bằng để làm đường giao thông nông thôn, xây dựng nhà văn hoá… để kịp thời giải quyết những vướng mắc, phát sinh ngay từ cơ sở.

Ban chỉ đạo xã đã chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể xã phối hợp lồng ghép tổ chức 91 hội nghị tuyên truyền về Chương trình xây dựng nông thôn mới với 5.325 lượt người tham gia; đã làm 77 băng zôn, khẩu hiệu tuyên truyền; trưng bày 22 biển công bố quy hoạch tại nhà văn hóa xã và nhà Văn hóa các xóm, đồng thời chỉ đạo mở chuyên mục và tăng thời lượng phát thanh trên hệ thống loa truyền thanh của xã để thông tin, tuyên truyền kịp thời, sâu rộng đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về chủ trương, chính sách, các văn bản chỉ đạo và các nội dung liên quan đến thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Công tác tuyên truyền xây dựng nông thôn mới đã góp phần quan trọng nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, nhân dân đã tin tưởng, tích cực tham gia xây dựng chương trình nông thôn mới, đã thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” với phong trào thi đua “cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” ở xã.

Qua 5 năm triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới, xã đã chú trọng đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới. Đã tổ chức 13 lớp tập huấn cho cán bộ công chức xã, cơ sở xóm tham gia xây dựng nông thôn mới để nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới. Đồng thời tổ chức cho cán bộ và đại diện nhân dân cơ sở xóm đi thăm quan học hỏi mô hình xây dựng nông thôn mới tại 03 xã điểm là xã Khánh Thành, Khánh Thiện và Khánh Nhạc (huyện Yên Khánh) để áp dụng tại địa phương.

Thông qua các lớp tập huấn và các buổi thăm quan thực tế, đội ngũ cán bộ cơ sở đã tìm hiểu và nắm vững được những kiến thức cơ bản trong công tác xây dựng nông thôn như: Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến xây dựng nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Nội dung, nguyên tắc và các bước thực hiện xây dựng nông thôn mới; Quy trình Quản lý tài chính nguồn ngân sách cấp xã. Từ đó cán bộ cơ sở đã hiểu rõ vì sao phải xây dựng nông thôn mới, xây dựng nông thôn mới là gì, tổ chức bộ máy điều hành ra sao, ai làm, làm gì, làm như thế nào…

Kết quả, khi bắt đầu thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, qua rà soát, Khánh Hòa mới đạt 4 tiêu chí, đến tháng 4 năm 2015, xã thực hiện được 12/19 tiêu chí. Trong 5 năm, xã đã đầu tư xây dựng 11 công trình với kinh phí 20 tỷ 117 triệu đồng. Xã đã xây dựng nhiều tuyến đường giao thông nông thôn theo chính sách hỗ trợ xi măng của tỉnh; có hoàn thành công tác dồn điền, đổi thửa tại 3/10 xóm, 7 xóm còn lại sẽ tiến hành sau khi dự án tuyến đường kết nối giữa cầu Giẽ - Ninh Bình với Quốc lộ 1A đi qua.

Trong 5 năm (2010-2015), kinh tế Khánh Hòa tiếp tục phát triển mạnh và đúng hướng. Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ, phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện, sản xuất hàng hóa, hiệu quả, bền vững. Đến cuối năm 2015, tổng thu nhập của xã đạt 190,9 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 là 29,7 triệu đồng, tăng 14,1% so với năm 2011. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm giai đoạn 2010-2015: Nông nghiệp 17,5%; Tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề 26,5%; dịch vụ 29,5%. Cơ cấu kinh tế đến năm 2015: Nông nghiệp 34%; Tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề 37%; dịch vụ 29%.

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, cấp ủy, chính quyền đã có nhiều chính sách khuyến khích, thu hút và tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, vay vốn ngân hàng. Một số ngành nghề được duy trì ổn định như: nghề mộc, cơ khí, xây dựng, giao thông, vận tải, dịch vụ. Ngoài những ngành nghề truyền thống, một bộ phận lao động trên địa bàn xã tập trung vào làm việc tại các khu công nghiệp (khoảng 1.300 lao động), có thu nhập cao, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập trên địa bàn. Đến năm 2015, toàn xã có 479 hộ công nghiệp; 218 hộ làm nghề xây dựng; 143 hộ thương nghiệp; 124 hộ vận tải; 88 hộ làm dịch vụ khác. Xã cũng tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động trên địa bàn. Trên địa bàn xã có 11 doanh nghiệp hoạt động, thu hút khoảng 200 lao động tham gia. Giá trị thu từ tiểu thủ công nghiệp - ngành nghề trong những năm 2010-2015 đạt trên 200 tỷ đồng. Bình quân tăng đạt 26,5% năm. Thu nhập bình quân đầu người năm 2011 là 13,6 triệu đồng/người/năm; năm 2015 thu nhập bình quân đầu người đạt 29,7 triệu đồng/người/năm, tăng gấp 2,2 lần.

Ngành dịch vụ phát triển đa dạng đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Chất lượng hoạt động dịch vụ các HTX nông nghiệp trong các khâu dịch vụ, cung ứng phân bón, giống vốn, thuốc trừ sâu, làm đất, tiêu tưới, bảo vệ đồng cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất của nhân dân. Quỹ tín dụng nhân dân sau thời gian bị gián đoạn hoạt động đã được chỉ đạo kiện toàn đi vào hoạt động trở lại từ tháng 6 năm 2013. Đảng ủy chỉ đạo ban xóa đói giảm nghèo, các cấp hội, đoàn thể khai thác tốt nguồn vốn vay từ ngân hàng chính sách để phục vụ công tác xóa đói giảm nghèo. Năm 2015 hệ thống điện được bàn giao cho điện lực Ninh Bình quản lý, đảm bảo cung ứng đủ điện sinh hoạt và sản xuất kinh doanh trên địa bàn.

Các loại hình dịch vụ như vận tải, viễn thông, dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm y tế tự nguyện phát triển mạnh, nâng cao đời sống của nhân dân. Hết năm 2015, toàn xã có 98% hộ dùng điện thoại; trên 300 máy vi tính và kết nối dịch vụ Internet. Có trên 60% người sử dụng các loại hình bảo hiểm y tế, bảo việt và bảo hiểm nhân thọ. Giá trị thu từ ngành dịch vụ 5 năm (2010-2014) đạt 139 tỷ 781 triệu đồng, bình quân mỗi năm tăng 29,5%.

Trong kinh tế nông nghiệp, Đảng ủy xã tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, lựa chọn những cây, con có giá trị và lúa thuần đưa vào sản xuất; tích cực áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, kỹ thuật thâm canh; mở rộng diện tích lúa chất lượng cao, hình thành các vùng lúa cao sản tại các HTX; chuyển đổi phương thức sản xuất từ cấy lúa thủ công sang gieo sạ tại HTX Yên Khang, giảm chi phí, cho năng suất cao.

Tổng diện tích gieo cấy lúa của xã trên 350 ha, năng suất lúa bình quân đạt từ 103-105 tạ/ha/năm. Các cây trồng khác trên đất màu như lạc, đậu, ngô đều cho năng suất cao. Năm 2010, Khánh Hòa có 240 ha lúa chất lượng cao, đến năm 2014 diện tích giống lúa chất lượng cao tăng lên 280 ha, chiếm 87,5% diện tích. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hàng năm (2010-2014) đạt 17,5%. Giá trị sản xuất trên 1ha đất canh tác đến năm 2015 đạt 110 triệu đồng/ha/năm. Cơ giới hóa nông nghiệp được đẩy mạnh, toàn xã, có 15 máy làm đất 12 máy gặt đập liên hoàn tăng 12 máy so với năm 2010.

Trên đất màu, duy trì 3 vụ sản xuất các cây truyền thống như lạc xuân, đậu tương hè thu và cây ngô đông. Sản xuất vụ đông tiếp tục được chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên đưa vào sản xuất các loại cây trồng mới có hiệu quả kinh tế cao như ngô ngọt, khoai tây, bí xanh… Trong đó, cây ngô ngọt có giá trị kinh tế cao, thời gian sinh trưởng ngắn, ít bị ảnh hưởng của điều kiện thời tiết nên được địa phương đưa vào trồng trong vụ đông. Xã cũng đã liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp, công ty, thương lái bao tiêu sản phẩm ổn định để nhân dân yên tâm sản xuất. Cùng với đó, phát triển mô hình trồng khoai tây bằng cơ giới xuống chân đất 2 lúa. Vụ đông 2014-2015, toàn xã gieo trồng được 198 ha, trong đó có 25 ha khoai tây được trồng bằng cơ giới trên đất 2 lúa. Vụ đông dần trở thành vụ sản xuất thứ 3 trong năm, góp phần tăng giá trị trên 1 ha canh tác, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho bà con nông dân. Bình quân thu nhập trên 1 ha đất canh tác vụ đông đạt 88,3 triệu đồng/ha/năm, tăng 18,3 triệu đồng/ha/năm so với mục tiêu đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXIII đề ra.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục phát triển, các mô hình trang trại, gia trại được hình thành và phát triển. Một số mô hình nuôi các con đặc sản như rắn, ba ba, cá sấu mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hằng năm, tổng đàn gia cầm, thủy cầm của xã đạt trên 30.000 con, đàn gia súc đạt trên 3000 con, diện tích nuôi thả cá đạt 7,5 ha. Thu nhập bình quân từ chăn nuôi trị giá trên 15 tỷ đồng. Công tác phòng bệnh, tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm được quan tâm chỉ đạo, không để dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn.

Tổng thu từ ngành nông nghiệp 5 năm (2010-2015) đạt trên 230 tỷ 3 đồng. Bình quân tăng 17,5% năm, tăng 10% so với nhiệm kỳ (2005-2010).

Thực hiện chủ trương của Trung ương, của tỉnh và sự chỉ đạo của Huyện ủy về việc dồn điền đổi thửa gắn với chỉnh trang đồng ruộng trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Yên Khánh, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 01/7/2013 về lãnh đạo nhiệm vụ dồn diền đổi thửa đất nông nghiệp, thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã Khánh Hòa. Thành lập Ban Chỉ đạo dồn điền đổi thửa ở xã do đồng chí Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban. Thành lập Tiểu ban dồn điền đổi thửa ở các xóm do đồng chí Bí thư chi bộ làm Trưởng Tiểu ban. Lựa chọn 2 đơn vị xóm làm điểm trưởng gồm xóm Ngoại và xóm Nội thuộc HTX Yên Khang để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm điểm trong năm 2013, tổ chức xây dựng chi tiết cho từng xóm, cử thành viên Ban Chỉ đạo, cán bộ công chức trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện, đồng thời tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm triển khai đồng loạt ở các đơn vị xóm còn lại trong năm 2014. Đồng thời, tổ chức tuyên truyền các văn bản chỉ đạo của các cấp đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân thông qua hệ thống truyền thanh, qua hội nghị của các đoàn thể chính trị - xã hội cấp xã và ở các cơ sở thôn (xóm). Qua đó, giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu được mục đích, ý nghĩa và nguyên tắc của việc dồn điền đổi thửa, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao khi tổ chức thực hiện. Trong 5 năm (2011-2015), Đảng ủy chỉ đạo 3 xóm hoàn thành công tác dồn điền đổi thửa, 07 xóm sẽ tiến hành giao ruộng cho nhân dân sau khi dự án tuyến đường kết nối giữa Cầu Giẽ - Ninh Bình với Quốc lộ 1A đi qua. Trước dồn điền, đổi thửa bình quân 3,5 thửa/hộ, sau dồn điền đổi thửa bình quân 1,7 thửa/hộ. Cùng với đó, giao thông nội đồng được chỉnh trang, quy hoạch lại theo hướng đảm bảo đồng bộ, khép kín, tạo điều kiện cho việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa máy móc vào sản xuất, tăng năng suất lao động, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.

Đồng thời, để tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển, Đảng ủy chỉ đạo các HTX nông nghiệp tích cực làm thủy lợi nội đồng, nạo vét kênh mương, khơi thông dòng chảy, đảm bảo chủ động tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tổ chức tháng an toàn giao thông, tiến hành giải tỏa lấy lại hành lang giao thông trên tuyến đường trục xã và kênh N4, nạo vét rãnh thoát nước đảm bảo tiêu nước kịp thời, không để ách tắc giao thông trên tuyến đường trục xã.

Ban Chỉ huy phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn xã sớm xây dựng kế hoạch và chủ động triển khai thực hiện phương án phòng chống lụt bão trên địa bàn. Tập trung chỉ đạo các cụm trọng điểm, các đơn vị xóm triển khai 4 tại chỗ đảm bảo ứng cứu kịp thời khi có bão lụt xảy ra.

Công tác quy hoạch sử dụng đất được quan tâm thực hiện, hàng năm Ủy ban nhân dân xã chỉ đạo thống kê biến động đất đai, rà soát quy hoạch, xây dựng kế hoạch sử dụng đất trình Hội đồng nhân dân xem xét, phê chuẩn và chỉ đạo thực hiện đúng Nghị quyết. Công tác giải phóng mặt bằng, thu hồi đất để thực hiện các dự án giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất, xây dựng đường giao thông… được thực hiện dân chủ, công khai, đúng quy định. Kết quả 5 năm (2011-2015), xã đã tổ chức giao đất làm nhà ở cho 102 hộ dân, đấu giá quyền sử dụng đất 46 lô tại đơn vị xóm Ngoại để tăng nguồn thu ngân sách trên địa bàn.

Thu, chi ngân sách được đảm bảo. Hằng năm, hoàn thành, đạt và vượt chỉ tiêu huyện giao. Tập trung khai thác nguồn thu như thu từ đấu giá quyền sử dụng đất, thu hoa lợi công sản, các khoản phí, lệ phí, thu theo pháp lệnh để đảm bảo các khoản chi thường xuyên và ưu tiên thanh toán nợ xây dựng cơ bản. Chi ngân sách đảm bảo đúng quy định, tiết kiệm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của BCH Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, các nghị quyết, kết luận, chương trình hành động của Đảng bộ tỉnh, chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục - đào tạo của xã có tiến bộ rõ rệt. Cuộc vận động “hai không” và phong trào “trường học thân thiện, học sinh tích cực” tiếp tục được đẩy mạnh. Cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học tăng cường và củng cố. Trong 5 năm (2010-2015) xã tập trung nhiều giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn, chất lượng giáo dục toàn diện được duy trì và củng cố vững chắc. Hằng năm, trường Mầm non huy động 95% trẻ em đến lớp, tăng 4,5% so với đầu nhiệm kỳ. Năm 2012 trường hoàn thành phổ cập trẻ em 5 tuổi; Năm 2013, Trường Mầm non của xã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1, với 3 khu vực, có 13 phòng học, các phòng chức năng, trang thiết bị, đồ dùng học tập được mua sắm đầy đủ.

Trường Tiểu học và THCS huy động 100% trẻ em trong độ tuổi đến trường; trẻ em đi học đúng độ tuổi đạt 100%. Công tác phổ cập được quan tâm chỉ đạo thực hiện và đạt được kết quả quan trọng. Năm 2011, Trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1. Năm 2013, trường tiểu học đạt chuẩn Phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2; trường THCS đạt các tiêu chuẩn về phổ cập. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và THPT tăng theo từng năm. Đội ngũ giáo viên không ngừng được nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu giảng dạy cho học sinh. Trong 5 năm (2010-2015) có nhiều học sinh đạt giải trong các kỳ thi, hội thi cấp huyện và cấp tỉnh; có 02 học sinh đạt giải cấp quốc gia.

Phong trào xã hội hoá giáo dục phát triển mạnh, nhất là công tác khuyến học, khuyến tài được mở rộng ở các thôn, xóm, các dòng họ và có nhiều đổi mới, đem lại hiệu quả thiết thực. Đến năm 2015, quỹ hội, quỹ các chi hội, cơ quan, đơn vị, dòng họ trên địa bàn xã có 168 triệu đồng.

Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được chú trọng, chất lượng khám và điều trị bệnh cho nhân dân được nâng lên, duy trì tốt kết quả tiêm chủng mở rộng, phòng chống bệnh phong, bệnh bại liệt, uốn ván sơ sinh; thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh, quy chế chuyên môn, quy chế giao tiếp, ứng xử, nâng cao y đức, tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh. Hằng năm, trạm y tế xã khám và điều trị cho hàng nghìn lượt người. 100% trẻ trong độ tuổi và bà mẹ mang thai được tiêm phòng định kỳ. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia phòng chống dịch bệnh được phát động sâu rộng, do vậy trên địa bàn xã không có dịch bệnh lớn xảy ra.

Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình được tập trung triển khai, thực hiện. Các chiến dịch truyền thông được triển khai sâu rộng, đạt hiệu quả. Tuy nhiên, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên và tỷ lệ sinh con thứ 3 vẫn còn tăng cao. Trong 5 năm (2010-2014), tỷ lệ dân số gia tăng bình quân tăng 1,05%, có 94 trường hợp sinh con thứ 3 trở lên.

Thực hiện chương trình Quốc gia về xóa đói, giảm nghèo, chính sách hộ nghèo, chính sách ưu đãi người có công được triển khai đầy đủ, kịp thời. Quy trình tổ chức các bước điều tra rà soát hộ nghèo được Đảng uỷ, UBND xã chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện đảm bảo đúng quy định hướng dẫn tại thông tư số 21/2012/LĐTBXH của Bộ lao động Thương binh và Xã hội và hướng dẫn của ban chỉ đạo điều tra rà soát hộ nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm dần. Năm 2010, xã Khánh Hòa có 272 hộ nghèo, chiếm 21,54 %; năm 2014 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,89%; đến năm 2015, số hộ nghèo trên địa bàn xã giảm xuống còn 2,94% (theo tiêu chí cũ). Trong 5 năm (2010-2015), xã xét duyệt đề nghị các cấp hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà cho 06 hộ, gia đình có khó khăn về nhà ở với số tiền 250 triệu đồng. Cấp mới 800 thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng. Các chính sách vay vốn, các dự án đầu tư nhằm giải quyết việc làm được giải quyết kịp thời với số tiền cho các hộ vay vốn là 11,6 tỷ đồng.

Các cuộc vận động, từ thiện, nhân đạo, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa phát động sâu rộng và được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Trong những năm 2010-2014, toàn xã đã vận động được 179,7 triệu đồng; tiếp nhận 1.271.700.000 đồng; 523 suất quà trị giá 163.150.000 đồng; 41 tấn gạo và 22 con bê giống, hỗ trợ cho 6014 lượt hộ nghèo, cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ gia đình chính sách, người có cô đơn, tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa.

Quán triệt, cụ thể hóa định hướng chỉ đạo của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI: “tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” và các chủ trương của Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ huyện về công tác quốc phòng - an ninh, hằng năm, Đảng ủy ban hành nghị quyết chuyên đề về công tác an ninh - quân sự, triển khai và phát động rộng rãi đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chỉ đạo và xây dựng tổ hòa giải ở các xóm, tổ an ninh tự quản đi vào thực hiện và phát huy tích cực; tổ chức và thực hiện tốt ngày hội “Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Nắm chắc tình hình an ninh nông thôn và hoạt động tôn giáo trên địa bàn. Duy trì và nhân rộng mô hình dòng họ tự quản về an ninh trật tự trong công tác phòng chống tội phạm và tai tệ nạn xã hội, phong trào xây dựng địa bàn không có ma tuý. Tích cực đấu tranh phòng chống, đẩy lùi tội phạm và tai tệ nạn xã hội. Chú trọng công tác kiện toàn lực lượng, đảm bảo chất lượng và hoạt động của lực lượng công an xã. Từng bước ngăn chặn và hạn chế các tệ nạn xã hội phát sinh trên địa bàn. Từ năm 2010 đến năm 2014, trên địa bàn xã xảy ra 94 vụ việc, đã xem xét giải quyết 94 vụ việc, đạt 100%; tình hình an ninh trật tự cơ bản ổn định, không để xảy ra các vụ trọng án, các điểm nóng, tụ tập đông người.

Đảng ủy chỉ đạo xây dựng, củng cố lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, thôn đội trưởng, đủ về số lượng, chất lượng. Duy trì nghiêm túc nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu, công tác bồi dưỡng, giáo dục kiến thức quốc phòng, an ninh, công tác huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên, tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền thực hiện tốt công tác quân sự địa phương; hàng năm hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân. Trong 5 năm (2010-2014), có 59 thanh niên lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đạt 100% kế hoạch. Công tác huấn luyện quân sự, tham gia diễn tập quân sự đều hoàn thành nhiệm vụ được giao, thường xuyên làm tốt chính sách hậu phương quân đội.

Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo được tăng cường, quan tâm tuyên truyền, quán triệt các chính sách của Đảng, nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; tạo điều kiện cho các hoạt động tín, ngưỡng tôn giáo theo nề nếp, đúng quy định. Tổ chức lễ hội truyền thống văn hóa Chùa Dầu đảm bảo đúng quy định, an toàn. Chỉ đạo nắm chắc tình hình, những vướng mắc, phát sinh về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời không để xảy ra phức tạp.

Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại tố cáo được triển khai và thực hiện nghiêm túc, đúng quy định, có hiệu quả góp phần đảm bảo và giữ vững tình hình an ninh trật tự của địa phương. Công tác tiếp dân được duy trì thực hiện thường xuyên, đã kịp thời tiếp nhận những ý kiến kiến nghị, phản ảnh của công dân và chỉ đạo giải quyết kịp thời, dứt điểm, đảm bảo thấu tình, đạt lý. Do vậy, không có đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp và đơn thư tái khiếu, tái tố xảy ra trên địa bàn.

Công tác xây dựng Đảng được triển khai toàn diện và đạt nhiều kết quả quan trọng. Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, Đảng uỷ chủ động xây dựng kế hoạch triển khai, học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết các cấp, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước gắn với tình hình thực tế của địa phương, đặc biệt là việc quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Hình thức triển khai, quán triệt học tập nghị quyết có nhiều đổi mới, mang lại hiệu quả thiết thực; quản lý chặt chẽ chế độ nề nếp, ý thức tham gia sinh hoạt học tập nghị quyết; chỉ đạo, kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nghị quyết của cấp ủy thôn, xóm. Qua đó, góp phần định hướng tư tưởng, xây dựng niềm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của chính quyền, tạo sự đồng thuận cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho đảng viên được quan tâm. Từ năm 2010 đến 2014, đã cử 19 đồng chí đi học lớp Trung cấp Lý luận chính trị, 05 đồng chí đi học lớp Sơ cấp Lý luận chính trị, 07 đồng chí đi học Đại học, 02 đồng chí đi học Trung cấp chuyên môn.

Thực hiện Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Đảng ủy đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện nghiêm túc; chỉ đạo các chi bộ đưa nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào sinh hoạt định kỳ tháng đối với đảng viên, hàng quý đối với Ban chi ủy chi bộ. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trên cơ sở chuẩn mực đạo đức đã có sự liên  hệ với bản thân, từ đó tạo chuyển biến tích cực trong mối quan hệ đồng chí, đồng nghiệp, quan hệ với nhân dân, ý thức tự phê bình và phê bình, chấp hành kỷ luật, kỷ cương của Đảng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thái độ, trách nhiệm phục vụ của cán bộ, công chức thực thi công vụ đúng mực hơn, hiệu quả công việc được nâng lên.

Bên cạnh đó, bám sát nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, Ban chấp hành Đảng bộ xã đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/ĐU về công tác phát triển đảng viên và xây dựng tổ chức Chi bộ vững mạnh. Thực hiện Nghị quyết 03-NQ/HU ngày 08/8/2011 của Huyện ủy về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và Nghị quyết chuyên đề số 03 của Đảng ủy, nội dung sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng lên. Các đồng chí Đảng ủy viên phụ trách các chi bộ trực tiếp dự sinh hoạt hằng tháng với Chi bộ được phân công, các đồng chí Thường vụ luân phiên dự họp với các Chi bộ có những vấn đề cần tập trung giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Đặc biệt, từ tháng 10/2013, thực hiện Kế hoạch số 74-KH/HU ngày 26/9/2013 của Huyện ủy Yên Khánh, Đảng uỷ đã chỉ đạo Chi bộ Cơ quan phân công đảng viên trong Chi bộ về dự sinh hoạt với các chi bộ thôn xóm. Thông qua sinh hoạt đã có tác dụng thiết thực, nâng cao một bước quan trọng trong công tác quản lý, rèn luyện, giáo dục đảng viên. Chất lượng, nội dung sinh hoạt đảm bảo được tính giáo dục, tính lãnh đạo, tính chiến đấu; các khó khăn vướng mắc được giải quyết ngay từ cơ sở và việc tổng hợp nắm bắt tình hình, biện pháp giải quyết khó khăn của Đảng uỷ của Ban Thường vụ được kịp thời, chính xác hơn.

Kết quả thực hiện kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) được thực hiện đảm bảo nghiêm túc. Sau kiểm điểm, Đảng bộ tiếp tục củng cố và tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quyết tâm sửa chữa, khắc phục tồn tại, yếu kém. Sau 3 năm thực hiện (2012-2015), những hạn chế, tồn tại được khắc phục, vai trò của cấp ủy được nâng lên, việc đấu tranh phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI) được thực hiện thường xuyên, kịp thời ngăn chặn những hiện tượng suy thoái đạo đức lối sống, chủ nghĩa cơ hội, tệ nạn tham nhũng…, nâng cao tinh thần đoàn kết, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, đoàn kết tập trung thực hiện mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã.

Công tác quản lý, giáo dục và rèn luyện đảng viên được quan tâm, nhất là số đảng viên đi làm ăn xa, đảng viên thuộc diện miễn sinh hoạt được thực hiện theo đúng quy định hướng dẫn. Công tác đánh giá, phân loại tổ chức đảng và đảng viên được triển khai thực hiện nghiêm túc, dân chủ, công khai, chặt chẽ. Kết quả phân loại: Tỷ lệ đảng viên được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt trên 85%, tỷ lệ Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh đạt trên 90%, Đảng bộ nhiều năm liền đạt trong sạch, vững mạnh. Công tác tạo nguồn và kết nạp đảng viên mới được quan tâm; trong nhiệm kỳ có 120 quần chúng ưu tú được cử đi học lớp nhận thức về Đảng, kết nạp được 55 đảng viên mới (trong đó có 01 đảng viên là người gốc giáo).

Công tác tổ chức cán bộ được tập trung chỉ đạo thực hiện tốt, thường xuyên chấn chỉnh, củng cố tổ chức của các Ban Chi ủy Chi bộ, tổ chức tốt Đại hội chi bộ nhiệm kỳ 2012-2015 và bầu trưởng xóm nhiệm kỳ 2012-2014 đúng quy định, đúng cơ cấu, đảm bảo chất lượng cán bộ được bầu. Tổ chức rà soát, bổ sung, quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý giai đoạn 2010-2015 và thực hiện triển khai quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý giai đoạn 2015-2020, góp phần tạo nguồn cho đội ngũ cán bộ kế cận để gửi đi đào tạo bồi dưỡng, quản lý sử dụng đạt hiệu quả.

Công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật của Đảng được coi trọng, góp phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Hằng năm, Đảng ủy, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát của Đảng để đảm bảo công tác lãnh đạo, chỉ đạo được chặt chẽ thống nhất ngăn chặn các biểu hiện suy thoái vi phạm vào các quy định của Đảng đối với tổ chức Đảng và đảng viên về thực hiện cương lĩnh chính trị và các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Trong nhiệm kỳ qua đã tổ chức 94 cuộc kiểm tra, 36 cuộc giám sát. Xử lý kỷ luật 12 đảng viên với các hình thức: Khiển trách 03 đồng chí; cảnh cáo 02 đồng chí; xóa tên 01 đồng chí; khai trừ 06 đồng chí. Các cuộc kiểm tra của Đảng ủy đã góp phần tích cực vào việc giáo dục, ngăn ngừa vi phạm trong cán bộ Đảng viên và các tổ chức Đảng, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật của Đảng.

Nhằm tạo ra nhiều động lực mới trong phong trào quần chúng tham gia thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Đảng bộ luôn chú trọng công tác dân vận. Tập trung nắm bắt tình hình, tâm tư nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là sau khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước ta. Làm tốt công tác dân vận trong các vụ hòa giải, mâu thuẫn, giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, vận động nhân dân tích cực tìm việc làm, phát triển dịch vụ thương mại, giúp nhau làm kinh tế để xóa đói, giảm nghèo; duy trì giữ vững và nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới.

Năm 2011, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cử tri trong xã tham gia cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016. Sau bầu cử, Hội đồng nhân dân xã đã tiến hành kỳ họp thứ nhất kiện toàn các chức danh lãnh đạo Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã. Sau khi được kiện toàn, Hội đồng nhân dân từng bước đổi mới hoạt động, thực hiện nghiêm túc các kỳ họp theo luật định. Nội dung các kỳ họp đảm bảo chất lượng, công tác giám sát và chất lượng tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp được đổi mới nội dung, hình thức; quan tâm và chỉ đạo giải quyết kịp thời các kiến nghị chính đáng của cử tri và nhân dân. Nghị quyết của HĐND ban hành sát đúng và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý của Ủy ban nhân dân xã bám sát sự lãnh đạo của Đảng ủy, chủ động xây dựng kế hoạch để triển khai thực hiện quyết liệt, tập trung những nhiệm vụ trọng tâm, những vấn đề vướng mắc và bức xúc ở cơ sở. Tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân và các nhiệm vụ chính trị đã đề ra.

Trong 5 năm (2010-2015), Ủy ban nhân dân xã Khánh Hòa đã triển khai xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới; tiếp nhận các dự án, chương trình phục vụ cho phát triển kinh tế ở địa phương. Công tác cải cách hành chính có nhiều chuyển biến tích cực trong việc giải quyết các thủ tục hành chính. Thực hiện giải quyết tốt công việc tại bộ phận một cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân và công dân đến giao dịch và làm việc, đảm bảo các thủ tục nhanh gọn, không gây phiền hà, sách nhiễu, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể đã có nhiều đổi mới, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc tổ chức thành công đại hội Mặt trận Tổ quốc nhiệm kỳ 2013-2018. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Liên tịch số 05-NQ/CP-MTTQ về thực hiện quy chế Mặt trận Tổ quốc tham gia giám sát cán bộ công chức, đảng viên ở khu dân cư; Nghị quyết số 03-NQ/MTTQ về Mặt trận Tổ quốc tham gia thực hiện luật phòng chống tham nhũng, lãng phí. Đồng thời, làm tốt công tác tuyên truyền thực hiện nghiêm pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo. Phối hợp với Hội đồng nhân dân xã tổ chức tốt các bước hiệp thương số lượng, danh sách, cơ cấu ứng cử viên và tuyên truyền vận động nhân dân bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân xã các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 đảm bảo đủ số lượng đúng cơ cấu, an toàn tiết kiệm; phối hợp thực hiện tốt các buổi tiếp xúc cử tri của Hội đồng nhân dân các cấp; phối hợp lấy ý kiến nhân dân về sửa đổi Hiến pháp 1992 và Luật đất đai sửa đổi... Cùng với ban thanh tra làm tốt công tác hoà giải, phát huy hiệu quả của ban giám sát cộng đồng, thực hiện vận động quyên góp ủng hộ các quỹ như quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ nạn nhân chất độc da cam, quỹ vì người nghèo, quỹ thiếu niên nhi đồng và các cuộc vận động khác. Tổ chức tốt ngày hội đại đoàn kết toàn dân (18/11) hằng năm và các ngày truyền thống của các đoàn thể. Tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, phối hợp thực hiện tốt phong trào xoá đói giảm nghèo và xây dựng tổ chức hội vững mạnh.

Đoàn Thanh niên xã vận động đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế; tổ chức các hoạt động Đoàn, Hội, Đội; thực hiện chương trình tháng thanh niên. Tổ chức ra quân chiến dịch mùa hè học sinh, sinh viên, thanh niên tình nguyện. Phối kết hợp với ban liên lạc hội cựu thanh niên xung phong tổ chức kỷ niệm ngày truyền thống thanh niên xung phong. Tổ chức tốt các hoạt động cho thiếu nhi trong dịp nghỉ hè ở các đơn vị thôn, xóm và tổ chức nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao trong hội trại nhân ngày Quốc tế thiếu nhi và tết Trung thu.

Trong 5 năm (2010-2015), Hội Phụ nữ xã đã vận động cán bộ, hội viên tiếp tục thực hiện tốt phong trào thi đua "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo xây dựng gia đình hạnh phúc”; phong trào "xây dựng gia đình 5 không 3 sạch", phong trào phụ nữ giúp nhau xoá đói giảm nghèo và các phong trào thi đua khác. Công tác xây dựng tổ chức hội vững mạnh được quan tâm và phát triển hội viên, 8/10 số chi hội đạt chi hội vững mạnh, 02 chi hội khá, xây dựng quỹ hội với tổng số tiền đạt trên 35.000.000 đồng. Duy trì 6 tổ vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội với số dư nợ 3,5 tỷ đồng. Vận động các hộ gia đình làm nhà vệ sinh tự hoại theo chương trình dự án CHOBA với 200 hộ làm nhà vệ sinh tự hoại, góp phần cải thiện vệ sinh cộng đồng trong khu dân cư trên địa bàn xã.

Hội Nông dân xã đã thực hiện tốt 3 phong trào thi đua trọng tâm: “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm ghèo bền vững”, “Nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới”, “Nông dân tham gia bảo đảm quốc phòng - an ninh”. Hội đóng vai trò nòng cốt trong việc tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy về đẩy mạnh sản xuất vụ đông trên đất hai lúa, Nghị quyết về công tác dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp, thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã. Hằng năm, phối hợp tổ chức từ 5 đến 6 lớp chuyển giao KHKT về sản xuất và chăn nuôi cho hội viên nông dân; cung ứng vật tư phân bón NPK các loại theo phương thức trả chậm; duy trì 6 tổ vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội với số dư nợ trên 3 tỷ đồng. Công tác xây dựng hội vững mạnh và phát triển hội viên mới được quan tâm. Có 9/10 chi hội hoạt động khá, các chi hội đều xây dựng quỹ để đảm bảo hoạt động.

Hội Cựu chiến binh tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền nghị quyết Đại hội Cựu chiến binh tỉnh, huyện tới các chi hội. Hằng năm, có 10/10 chi hội đạt chi hội vững mạnh, không có chi hội đạt khá. Tổng số quỹ ở các chi hội là đạt trên 100 triệu đồng, có 5 tổ góp vốn giúp nhau phát triển kinh tế. Hội còn đứng ra tín chấp vay vốn cho hội viên chăn nuôi sản xuất, kinh doanh.

Các tổ chức hội quần chúng hội như Hội Khuyến học, Hội Chữ thập đỏ, Hội Người cao tuổi, Hội Cựu thanh niên xung phong, Hội Cựu giáo chức... đã tập trung đẩy mạnh các hoạt động đảm bảo thiết thực, có hiệu quả góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị về việc tổ chức đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, trong 2 ngày 07 và 08/4/2015, Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Khánh Hòa lần thứ XXIV, nhiệm kỳ 2015-2020 được tổ chức tại Hội trường UBND xã. Dự đại hội có 127 đại biểu đại diện cho đảng viên trong toàn Đảng bộ.

Đại hội tổng kết, đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXIII, kiểm điểm công tác lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2010-2015, rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra phương hướng, mục tiêu tổng quát trong nhiệm kỳ mới: Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá theo hướng ổn định, bền vững; khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đi đôi với phát triển kinh tế, chú trọng phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Đẩy nhanh và chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm, giảm nghèo; từng bước thu hẹp khoảng cách về thu nhập. Tăng cường củng cố an ninh trật tự, công tác quân sự địa phương; ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn xã hội; giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội để tập trung phát triển kinh tế. Đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo,sức chiến đấu của tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền; đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của doanh nghiệp và nhân dân, cùng hướng tới mục tiêu vì sự phát triển xã hội Khánh Hòa giàu đẹp văn minh.

Đại hội thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu của nhiệm kỳ 2015-2020:

1. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm: Nông nghiệp 4,5%; Tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề 18%; dịch vụ 37%.

2. Cơ cấu kinh tế đến năm cuối nhiệm kỳ: Nông nghiệp 32%; Tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề 39%; dịch vụ 29%.

3. Giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác đến cuối nhiệm kỳ đạt 130 triệu đồng/ha/năm;

4. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 3%.

5. Huy động 97% trẻ em Mầm non đến trường; duy trì 100% trẻ em đi học đúng độ tuổi.

6. Có 02 xóm xây dựng được nhà văn hóa; 90% gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa.

7. Hoàn thành xây dựng 19/19 tiêu chí nông thôn mới.

8. Công tác an ninh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; công tác quốc phòng quân sự hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;

9. Số chi bộ đạt trong sạch vững mạnh 98%; đảng viên kết nạp cả nhiệm kỳ 65 đồng chí; Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh xuất sắc; chính quyền vững mạnh toàn diện; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa XXIV, nhiệm kỳ 2015-2020 gồm 15 đồng chí. Ban Chấp hành bầu Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Dương được bầu làm Bí thư. Đồng chí Lê Văn Quyết và đồng chí Vũ Văn Luận được bầu làm Phó Bí thư.

Thành công của Đại hội thể hiện sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ, tạo niềm tin và động lực mới, cổ vũ nhân dân trong xã tiếp tục phát huy truyền thống, vượt qua khó khăn, thách thức, đưa Khánh Hòa phát triển mạnh mẽ hơn trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp và chủ trương của Ban Chấp hành Đảng bộ xã về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị của xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể, đồng bộ, quyết liệt, phù hợp. Nhận thức của người dân về xây dựng nông thôn mới có chuyển biến rõ rệt. Nhiều cách làm hay, sáng tạo được triển khai, thực hiện và nhân ra diện rộng, có sức lan tỏa cao, từng bước đi vào chiều sâu; chủ động phát huy nội lực, chú trọng thu hút và phát huy ngoại lực, sự hỗ trợ của nhà nước, của con em quê hương. Đến năm 2016, tổng kinh phí xã huy động được để xây dựng nông thôn mới là 188.398,6 triệu đồng. Trong đó, nguồn kinh phí do nhân dân đóng góp là 20.880,1 triệu đồng, chiếm 11,08%. Việc huy động sự đóng góp của nhân dân xây dựng nông thôn mới đảm bảo dân chủ, công khai, minh bạch, hợp với sức dân, các hộ nghèo, hộ chính sách được hưởng miễn giảm sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả.

Kết cấu hạ tầng nông thôn được đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đã kiên cố hóa được 23,85 km kênh mương; 56,77 km đường giao thông được bê tông hóa, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sinh hoạt của người dân; hệ thống đường, trường, trạm, điện được nâng cấp với tổng kinh phí đầu tư lên đến 257 tỷ 673,5 triệu đồng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, bộ mặt nông thôn được đổi mới, ngày càng khang trang, sạch đẹp. Ngày 19/12/2016, UBND tỉnh Ninh Bình đã ra Quyết định số 635/QĐ-UBND về việc công nhận xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh đạt chuẩn nông thôn mới. Sau khi được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, các tiêu chí nông thôn mới tiếp tục được duy trì, nâng cao hướng đến mục tiêu xây dựng xã đạt nông thôn mới kiểu mẫu. Tiêu biểu như: xây dựng tổ an ninh tự quản ở 10 khu dân cư; Phát triển vườn kiểu mẫu ở xóm Thuần Đầu; Xây dựng xóm bình yên ở chi bộ xóm Chợ Dầu xóm đã vận động con em quê hương và nhân dân chỉnh trang đường làng ngõ xóm, vệ sinh môi trường, trồng cây xanh bóng mát. Xây dựng hệ thống điện cao áp ở các đường trục xã, đường điện thắp sáng ở 10 khu dân cư. Xóm Chợ Dầu nâng cấp các tuyến đường ngõ xóm. Xóm Xuân tổ chức nâng cấp khuôn viên nhà văn hóa, trị giá trên 300 triệu đồng. Mở rộng tuyến đường ra nghĩa trang khu Đông Hòa. Bên cạnh đó, Đảng ủy phát động đẩy mạnh phát triển sản xuất nhằm tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nhân dân; tăng cường công tác vệ sinh môi trường, xây dựng cảnh quan nông thôn xanh, sạch, đẹp. Đến năm 2020, xã có 2 xóm đạt khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu.

Từ thực tiễn chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn mới, có thể thấy, cùng với việc huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, Đảng bộ đã có nhiều cách làm chủ động, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và đặc điểm của xã, tránh khuôn mẫu. Khi triển khai xuống cơ sở phải bài bản, cụ thể, sát sao để tạo sự đồng thuận. Với mỗi tiêu chí xây dựng nông thôn mới, xã không tổ chức làm đại trà mà chọn mỗi xóm làm điểm ứng với một tiêu chí nhất định, tạo không khí thi đua giữa các xóm với nhau. Đa dạng hóa việc huy động nguồn lực để xây dựng nông thôn mới, theo phương châm: Huy động nguồn lực từ cộng đồng là quyết định, sự tham gia của các doanh nghiệp và xã hội là quan trọng, sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước là cần thiết. Phát huy công tác xã hội hóa của địa phương. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Nhân dân là chủ thể của phong trào xây dựng nông thôn mới: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng thụ.

Cùng với việc đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu xây dựng nông thôn mới, ngành nông nghiệp của xã tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển. Một số chủ trương mới có tính đột phá được tập trung chỉ đạo, thực hiện mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội như: đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa; thực hiện cơ giới hóa 100% trong khâu làm đất và thu hoạch. Tổ chức thực hiện hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Nhiều mô hình ứng dụng khoa học, công nghệ được triển khai, đem lại hiệu quả kinh tế cao, đã làm thay đổi nhận thức, tư duy của người dân trong sản xuất nông nghiệp, từng bước chuyển từ lao động thủ công sang sử dụng máy cơ giới hóa, từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa chất lượng cao, an toàn thực phẩm. Do đó, sản xuất nông nghiệp có bước phát triển toàn diện trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng khoa học công nghệ tiến bộ. Giá trị sản xuất tăng nhanh, trong 5 năm (2015-2019) toàn ngành nông nghiệp đạt 283 tỷ đồng, đạt 112% kế hoạch, tăng 4,6% so với nhiệm kỳ (2010-2015). Bình quân  giá trị trên 1 ha đất canh tác đạt từ 90 đến 103 triệu đồng/ha/năm.

Diện tích gieo trồng trong 5 năm (2015-2020) có biến động do nhà nước thu hồi để thực hiện các dự án xây dựng tuyến đường cao tốc Cầu Giẽ Ninh Bình, dự án giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất làm nhà ở cho nhân dân, xây dựng các khu tái định cư. Năm 2015 tổng diện tích gieo trồng là 413,7 ha đến năm 2019 tổng diện tích gieo trồng còn 373,1 ha.

Sản xuất vụ đông tiếp tục được chú trọng theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả, diện tích vụ đông. Diện tích sản xuất vụ đông hằnng năm đạt trên 100 ha, chiếm trên 30% đất canh tác. Các cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao tiếp tục được đưa vào sản xuất như: bí xanh, ngô ngọt, khoai tây, rau màu các loại....

Trong chăn nuôi, Đảng bộ khuyến khích và tạo điều kiện phát triển chăn nuôi theo hướng gia trại, trang trại xa khu dân cư, đảm bảo vệ sinh môi trường. Việc thực hiện chuyển đổi một phần diện tích cấy lúa kém hiệu quả sang trồng cây mới và nuôi thủy sản đã mang lại hiệu quả rõ nét. Diện tích nuôi trồng thủy sản trên toàn xã luôn duy trì 7,5 ha. Tổng thu từ chăn nuôi, thủy sản đạt từ 14-17 tỷ đồng/năm. Năm 2017, 2018, chăn nuôi lợn gặp nhiều khó khăn do giá lợn hơi giảm mạnh, nguyên nhân là do những năm trước tình hình chăn nuôi thuận lợi, giá cả ổn định nên người dân đầu tư mở rộng đàn, dẫn đến tình trạng cung vượt quá cầu và Trung Quốc ngừng nhập khẩu từ phía Việt Nam khiến giá thịt lợn hơi giảm sâu, người chăn nuôi thua lỗ nặng. Đến năm 2019, dịch tả lợn châu Phi hoành hành gây thiệt hại nặng nề cho người chăn nuôi, khiến đàn lợn tiếp tục giảm. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy đã kịp thời chỉ đạo thực hiện chính sách hỗ trợ cho người chăn nuôi bị thiệt hại do khủng hoảng thừa thịt lợn hỗ trợ tái đàn lợn sau dịch tả lợn châu Phi để khôi phục sản xuất, đưa chăn nuôi năm 2020 dần phục hồi.

Bên cạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn được duy trì, tạo điều kiện phát triển tăng lên cả về số lượng và quy mô, chủ yếu tập trung các lĩnh vực: sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất đồ gỗ, cơ khí... Đến năm 2020, toàn xã có trên 2000 lao động làm việc ở các công ty, doanh nghiệp, các khu, cụm công nghiệp trong và ngoài tỉnh. Trên địa bàn xã có 1 cơ sở sản xuất chế biến nông sản, 2 tổ hợp may công nghiệp, 2 cơ sở sản xuất vôi và gạch không nung,... đã giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động tại chỗ, có thu nhập ổn định. Giá trị thu từ tiểu thủ công nghiệp - ngành nghề trong 5 năm (2015-2019) đạt 508 tỷ đồng, tăng 27,6%/năm so với nhiệm kỳ (2010-2015), tăng 9,6% so với mục tiêu đề ra.

Trong những năm 2015-2020, hoạt động thương mại, dịch vụ đa dạng, quy mô được mở rộng, chất lượng hệ thống dịch vụ ngày càng tốt hơn, đáp ứng nhu cầu sản xuất và phục vụ đời sống của nhân dân. Giá trị thu từ ngành dịch vụ và thu khác 5 năm (2015-2019) đạt 405 tỷ đồng, tăng 38,3% so với nhiệm kỳ (2010-2015).

Tổng thu từ 3 ngành kinh tế cơ bản trong 5 năm (2015-2019) đạt 1.196 tỷ đồng, bình quân đầu người đến năm 2019 đạt 47 triệu đồng/người/năm.

Công tác lập, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sử dụng đất và thực hiện kế hoạch sử dụng đất hàng năm được thực hiện tốt. Công tác thống kê, kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất, công tác chỉnh lý hồ sơ địa chính và hoàn thiện hồ sơ đề nghị chứng nhận cho các hộ nhân dân sau dồn điền đổi thửa được tập trung chỉ đạo.

Đặc biệt, trong giai đoạn này, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Yên Khánh, xã Khánh Hòa đã thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, thu hồi đất để phục vụ thi công Dự án xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường Cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với Quốc lộ 1 (giai đoạn II và giai đoạn III), vừa nhanh, vừa đảm bảo công bằng, công khai và dân chủ, trở thành điểm sáng của tỉnh.

Tháng 5 năm 2015, giai đoạn II của dự án xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với Quốc lộ 1 được khởi công. Xã Khánh Hòa là địa bàn mà dự án đi qua tại huyện Yên Khánh. Với gần 500 hộ bị ảnh hưởng, 120 hộ phải tái định cư, xã Khánh Hòa là địa bàn chịu ảnh hưởng lớn nhất từ dự án. Việc xây dựng tuyến đường giúp giải quyết nhu cầu lưu lượng giao thông ngày càng cao, chống ách tắc giao thông khu vực thành phố Ninh Bình, đồng thời, góp phần không nhỏ trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Việc bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công không chỉ là việc làm cụ thể để đảm bảo quyền lợi cho các hộ gia đình mà còn là trách nhiệm đối với cộng đồng.

Giai đoạn đầu thực hiện, khi có quyết định quy hoạch dự án, ngay lập tức Hội đồng giải phóng mặt bằng xã Khánh Hòa đã họp bàn, nhận định công tác tuyên truyền, vận động nhân dân về ý nghĩa, lợi ích của dự án là việc làm cấp thiết nhất. Hội đồng giải phóng mặt bằng xã Khánh Hòa đã thực hiện công tác tuyên truyền sâu rộng với hàng chục cuộc họp bàn, trong đó hơn 1.000 lượt người tham dự nhằm công khai thông tin về dự án. Bên cạnh đó, để người dân hiểu và tin tưởng vào cấp ủy, chính quyền, bất kể trời nắng hay mưa, các thành viên của Hội đồng giải phóng mặt bằng đã đến tận nhà các hộ gia đình để vận động tuyên truyền, lắng nghe và giải thích cho nhân dân những thắc mắc, từ đó tạo được sự đồng thuận, nhất trí cao.

Trong công tác kiểm đếm, kê khai tài sản, người dân được hướng dẫn để tự kê khai tài sản, sau đó Hội đồng giải phóng mặt bằng xã phối hợp với Hội đồng giải phóng mặt bằng huyện tiến hành kiểm đếm lại nhằm đảm bảo độ chính xác. Đồng thời, lắng nghe những phản hồi, ý kiến đóng góp của nhân dân để đảm bảo tính dân chủ. Thực tế, trong việc áp giá tài sản cho các hộ dân gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do nhiều trường hợp nhà đất của người dân "muôn hình vạn trạng", không đơn thuần có thể áp dụng theo khung giá đã ban hành. Nhưng các cấp, các ngành có liên quan đã tập trung tháo gỡ vướng mắc nên việc kiểm kê tài sản, tính toán tiền đền bù, hỗ trợ cho nhân dân đã được hoàn thành thuận lợi. Trên cơ sở lấy lợi ích của người dân làm trọng tâm, Hội đồng giải phóng mặt bằng xã đã cố gắng đảm bảo tối đa lợi ích cho người dân nhưng vẫn tuân quy định của pháp luật. Kết quả, toàn bộ các hộ gia đình có nhà đất bị thu hồi đã được nhận tiền đền bù thỏa đáng. Bên cạnh đó, các hộ thu hồi nhà ở đã được cấp đất tại khu tái định cư với diện tích đất bằng hoặc lớn hơn nơi ở cũ, có đường giao thông thuận lợi.

Trong công tác giải phóng mặt bằng phục vụ dự án, ngoài tài sản, nhà đất của nhân dân, trong diện tích mặt bằng cần giải phóng có nhiều phần mộ cần di dời. Ngoài những phần mộ có chủ, các gia đình đã đến nhận tiền đền bù, Hội đồng giải phóng mặt bằng đã quy hoạch địa điểm quy tập các phần mộ vô chủ, đánh dấu cụ thể để thời gian sau có người đến nhận sẽ bàn giao lại. Chính sự sát sao, trách nhiệm của lãnh đạo địa phương đã giúp nhân dân nơi đây hiểu rõ chính sách của Đảng, Nhà nước và đồng thuận làm theo. 

Kế thừa những kinh nghiệm và kết quả đã đạt được, năm 2018, khi dự án xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với Quốc lộ 1 bước vào giai đoạn III, xã Khánh Hòa tiếp tục làm tốt công tác giải phóng mặt bằng phục vụ việc thi công dự án.

Về quy mô giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án (giai đoạn III) trên địa bàn xã Khánh Hòa là 22ha; tổng chiều dài tuyến chính là 3,5km; có 625 hộ dân bị ảnh hưởng, trong đó 400 hộ bị ảnh hưởng về đất nông nghiệp và 225 hộ bị ảnh hưởng về đất thổ cư; 169 hộ dân thuộc diện tái định cư. Sau khi dự án được công bố, công khai quy hoạch xây dựng tuyến đường, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Yên Khánh, xã Khánh Hòa đã tổ chức họp dân để thông báo công khai và tổ chức kiểm đếm, kê khai lập phương án bồi thường giải phóng mặt bằng. Đến tháng 6/2020, khu tái định cư đã được xây dựng xong, tiến hành giao đất cho các hộ xây dựng nhà, toàn bộ mặt bằng cần giải phóng được bàn giao cho chủ đầu tư.

Với đường lối, chủ trương đúng đắn, thực hiện trên nguyên tắc công bằng, công khai và dân chủ, công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn xã Khánh Hòa đã được triển khai thực hiện thuận lợi, hiệu quả cao tạo niềm tin của nhân dân đối với chính quyền địa phương.

Cùng với công tác giải phòng mặt bằng, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức của nhân dân và cộng đồng dân cư về bảo vệ môi trường, khai thác, sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên được chú trọng; các biện pháp bảo vệ môi trường được triển khai thực hiện hiệu quả. Việc tổng vệ sinh môi trường trên địa bàn xã duy trì nền nếp; xây dựng và thực hiện Đề án thu gom xử lý rác thải tập trung, quản lý nghĩa trang nhân dân đi vào nề nếp; quản lý tốt môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn.

Công tác phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn được chú trọng; chủ động đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng cấp các công trình phòng, chống bão, lụt đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ sản xuất, đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão.

Công tác thu ngân sách hàng năm đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời các nguồn thu phát sinh. Tổng thu ngân sách trên địa bàn qua các năm đều đạt và vượt chỉ tiêu huyện giao; tận dụng và khai thác tốt nguồn thu thường xuyên trên địa bàn, tranh thủ các nguồn hỗ trợ của cấp trên.

Chi ngân sách nhà nước được quản lý chặt chẽ, đảm bảo đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả, đúng quy định, đáp ứng kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ chính trị phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tập trung thanh toán nợ các công trình xây dựng cơ bản trong xây dựng nông thôn mới. Việc thực hành tiết kiệm chống lãng phí được quan tâm chỉ đạo, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí trong chi tiêu ngân sách.

Cùng với phát triển kinh tế, công tác giáo dục và đào tạo luôn được Đảng bộ coi là nhiệm vụ hàng đầu cần được quan tâm, chú trọng, ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đảng bộ đã tổ chức quán triệt sâu rộng Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” và triển khai thực hiện nghiêm Kế hoạch số 92-KH/TU, ngày 13/1/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Bình về thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW. Công tác phổ cập giáo dục, xây dựng trường chuẩn quốc gia được quan tâm; chất lượng giáo dục được nâng lên và đạt kết quả vững chắc. Hằng năm, huy động 58% trẻ trong độ tuổi đến nhà trẻ, 100% số trẻ trong độ tuổi đến lớp mẫu giáo; học sinh hoàn thành chương trình Tiểu học đạt 100%; số học sinh tốt nghiệp THCS đạt 98-100%; số học sinh thi đỗ vào THPT các hệ đạt từ 90-95% trở lên; có 75-80% học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng; học sinh giỏi ở các bậc học được nâng lên

Quy mô trường lớp các cấp học được sắp xếp phù hợp và duy trì ổn định, đáp ứng nhu cầu dạy và học. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học được quan tâm chỉ đạo quyết liệt và đạt kết quả nổi bật, có 3/3 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên của 3 cấp học (Mầm non, Tiểu học và THCS) được quan tâm. Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được được triển khai thực hiện tốt theo tinh thần Chỉ thị số 07-CT/TU, ngày 05/4/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục tăng cường lãnh đạo công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Phong trào thi đua xây dựng gia đình, dòng họ hiếu học, cộng đồng dân cư khuyến học được đẩy mạnh; quỹ khuyến học của xã, các thôn, dòng họ được duy trì và phát triển, qua đó góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ và khích lệ tinh thần hiếu học của con em quê hương.

Triển khai thực hiện các chủ trương của Trung ương, của Tỉnh ủy về lĩnh vực y tế, nhất là Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Chính phủ, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân được Đảng bộ quan tâm. Trạm y tế xã được đầu tư nâng cấp khang trang, sạch đẹp. Trang thiết bị, đội ngũ y, bác sĩ đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân. Các chương trình quốc gia về y tế được triển khai thực hiện có hiệu quả; tỷ lệ nhân dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 90%. Đặc biệt, năm 2020, trước tình hình dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (Covid-19) diễn ra trên toàn cầu, thực hiện sự chỉ đạo của các cấp, các ngành, Đảng bộ xã Khánh Hòa đã lãnh đạo tập trung mọi nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch trên địa bàn. Các cán bộ, nhân viên y tế phối hợp với các lực lượng công an, quân sự và các tổ chức quần chúng tuyên truyền, vận động nhân dân hạn chế ra đường cũng như các hoạt động tụ tập đông người, khi cần thiết ra ngoài phải đeo khẩu trang và giữ khoảng cách; đồng thời nhắc nhở hoạt động của các hàng quán, cơ sở sản xuất kinh doanhh trên địa bàn. Nhờ đó, trên địa bàn không có người bị nhiễm bệnh.

Các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về nâng cao chất lượng dân số được chú trọng triển khai thực hiện, tạo bước chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, từng bước hạn chế tình trạng mất cân bằng giới tính. Mức giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm đạt 0,13‰. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 7%. Nhận thức về trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ trẻ em của toàn xã hội được nâng lên.   

Công tác thông tin, tuyên truyền từng bước được đổi mới nội dung, hình thức truyên truyền, bám sát các nhiệm vụ chính trị của địa phương, phục vụ tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền kịp thời đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân.

Quán triệt quan điểm của Đảng, nhằm xây dựng ”văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội”, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” tiếp tục được triển khai sâu rộng, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, khơi dậy tinh thần trách nhiệm, cống hiến của toàn dân, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo và nội lực của Nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, khơi dậy tinh thần đoàn kết, tăng cường, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân vì một cộng đồng, xã hội tiến bộ, nhân văn. Cơ sở vật chất văn hóa được đầu tư, 10/10 xóm có nhà văn hóa gắn với sân thể thao phổ thông, mỗi nhà văn hoá và sân thể thao có diện tích thấp nhất 470m2 nhất 1.000m2. 100% nhà văn hóa các thôn được lắp đặt các dụng cụ luyện tập thể dục thể thao đơn giản thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra rộng khắp, phong phú. Các ngành, đoàn thể tích cực tuyên truyền vận động toàn dân tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên. Nhiều tổ chức đoàn thể xem thể dục thể thao là phương tiện tập hợp lực lượng tích cực để tuyên truyền nhiệm vụ chính trị một cách sinh động, hiệu quả, đặc biệt là đoàn thanh niên. phòng trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia trọng tâm là các môn: bóng chuyền, bóng bàn, bóng đá, đi bộ, điền kinh….

Công tác xóa đói, giảm nghèo được chỉ đạo chặt chẽ, các chính sách vay vốn, các dự án đầu tư nhằm giải quyết việc làm được tiếp thu và giải quyết kịp thời với dư nợ cho các hộ vay vốn đến nay là 12,8 tỷ đồng. Việc triển khai thực hiện sâu rộng các chính sách giảm nghèo đã tạo môi trường và điều kiện cho người nghèo được tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội cơ bản để vươn lên thoát nghèo bền vững, từng bước nâng mức sống của nhóm hộ nghèo, hộ cận nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm dần, năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn xã là 2,94% đến năm 2019 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 2,34%; các chính sách hỗ trợ người nghèo, người có công được thực hiện kịp thời. Trong 5 năm (2015-2019), xã xét duyệt đề nghị các cấp hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà cho 08 hộ, gia đình có khó khăn về nhà ở với số tiền 290 triệu đồng.

Công tác trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm triển khai hiệu quả, đảm bảo đầy đủ, kịp thời, đúng quy định của nhà nước với các đối tượng chính sách. Chương trình an sinh xã hội đã huy động được cả hệ thống chính trị và nhân dân tham gia; hoạt động của quỹ Đền ơn đáp nghĩa và an sinh xã hội xã thường xuyên, có hiệu quả thiết thực. Năm 2020, đại dịch Covid-19 bùng nổ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội mà ảnh hưởng trực tiếp là đối tượng người có công, người lao động, người nghèo, đối tượng yếu thế trong xã hội. Thực hiện chủ trương của Trung ương và chỉ đạo của Tỉnh ủy, xã đã kịp thời thực hiện việc hỗ trợ người dân theo tinh thần Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 09/4/2020 của Chính phủ.

Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo chính sách cho người có công được quan tâm chỉ đạo thực hiện thường xuyên, nhất là từ khi triển khai thực hiện Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16/6/2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các Nghị định Hướng dẫn của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.

Công tác tuyên truyền, triển khai thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được quan tâm; công tác quản lý nhà nước về tôn giáo được tăng cường, quan tâm tuyên truyền, quán triệt các chính sách của Đảng, nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; tạo điều kiện cho các hoạt động tín, ngưỡng tôn giáo theo nề nếp, đúng quy định. Chỉ đạo nắm chắc tình hình, những vướng mắc, phát sinh về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời không để xảy ra phức tạp.

Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy, công tác quốc phòng - quân sự địa phương được tăng cường, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hằng năm, Đảng ủy ban hành Nghị quyết chuyên đề về công tác quốc phòng - quân sự địa phương, Nghị quyết công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ; quán triệt đến toàn thể cán bộ, đảng viên, các ngành, đoàn thể, các đơn vị thôn, xóm để phối hợp tổ chức triển khai thực hiện, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân. Chú trọng lãnh đạo kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng và an ninh. Xây dựng, củng cố lực lượng dân quân tự vệ, Quân nhân dự bị động viên, Thôn đội trưởng, đủ về số lượng, chất lượng. Duy trì nghiêm túc nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu trong các ngày lễ tết của Dân tộc, của địa phương. Tổ chức diễn tập chiến đấu phòng thủ thành công, đảm bảo an toàn tuyệt đối về người và vũ khí trang bị. Hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện lực lượng dân quân, quân nhân dự bị động viên. Công tác bồi dưỡng, giáo dục kiến thức quốc phòng, an ninh, công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ trong 5 năm đạt 85/85=100% chỉ tiêu giao quân (so với nhiệm kỳ 2010-2015 tăng 26 chỉ tiêu). Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội đảm bảo kịp thời đúng quy định.

An ninh chính trị tiếp tục được giữ vững ổn định; trật tự xã hội có chuyển biến tích cực. Đảng ủy thường xuyên quan tâm củng cố, kiện toàn bổ sung kịp thời công an viên các xóm; chỉ đạo xây dựng và phát huy hiệu quả hoạt động của tổ hòa giải ở các xóm, tổ an ninh tự quản. Tổ chức và thực hiện tốt ngày hội “Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc” trên địa bàn dân cư thiết thực, hiệu quả. Các tệ nạn xã hội trên địa bàn ngày càng giảm. Trong 5 năm (2015-2020), trên địa bàn xã xảy ra 39 vụ việc, đã xem xét giải quyết 29 vụ việc, chuyển công an huyện xử lý giải quyết 10 vụ việc. Tình hình an ninh trật tự ổn định, không để xảy ra các vụ trọng án, các điểm nóng, các vụ việc gây mất an ninh trật tự xã hội. Thực hiện chủ trương tăng cường công an chính quy về cơ sở, từ tháng 01/2020, xã Khánh Hòa đã tiếp nhận các đồng chí công an xã chính quy về làm nhiệm vụ tại địa phương. Các cán bộ chiến sĩ công an chính quy đã phát huy tốt phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, cùng với lực lượng công an bán chuyên trách góp phần quan trọng vào công tác đảm bảo an ninh trật tự tại cơ sở.

Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại tố cáo được triển khai và thực hiện nghiêm túc, đúng quy định, có hiệu quả góp phần đảm bảo và giữ vững tình hình an ninh trật tự của địa phương. Công tác tiếp dân được duy trì thực hiện thường xuyên theo quy định của Luật tiếp công dân năm 2013; tiếp nhận ý kiến kiến nghị, phản ảnh của công dân và chỉ đạo giải quyết kịp thời, dứt điểm. Trong 5 năm (2015-2020) đã tiếp 196 lượt công dân, tỷ lệ giải quyết tại xã đạt 98,5%, 1,5% chuyển cấp trên giải quyết. Không có đơn thư tồn đọng kéo dài.

Công tác phòng chống tham nhũng được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Các biện pháp phòng ngừa được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả như: Việc công khai, minh bạch hoạt động của tổ chức, cơ quan, thủ tục hành chính, tài chính ngân sách; công khai tài sản - thu nhập của người phải kê khai… tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền giám sát, phát hiện tố cáo tham nhũng.  

Với phương châm phát triển kinh tế là hàng đầu, xây dựng Đảng là then chốt, Đảng bộ tập tủng lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, hiệu quả công tác xây dựng Đảng. Trên cơ sở những kết quả đạt được trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Đảng ủy xã Khánh Hòa tiếp tục chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đảng ủy xác định rõ những nội dung cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nhận diện các biểu hiện suy thoái và các giải pháp để chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, khắc phục các tồn tại trong thực hiện nhiệm vụ được giao, gắn với việc kiểm điểm, đánh giá, xếp loại tổ chức, cán bộ, đảng viên hàng năm. Qua 5 năm thực hiện đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên được nhận diện rõ và từng bước khắc phục; việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt cấp ủy được duy trì hiệu quả; góp phần ngăn ngừa, phát hiện và khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót, từ đó hạn chế tiêu cực, giảm sai phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; đảm bảo kỷ cương, kỷ luật trong đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ.

Đồng thời, Đảng ủy xác định, để thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) cần gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, việc thực hiện chủ đề công tác hằng năm của Trung ương, của Tỉnh ủy, của Huyện ủy. Đảng ủy chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai thực hiện nghiêm túc, với nhiều hình thức phong phú, thiết thực, có sức lan tỏa lớn, tạo được sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; đẩy mạnh thực hiện nếp sống văn hóa công sở, trách nhiệm nêu gương trong thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhất là người đứng đầu. Nhằm cụ thể hóa việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy đã triển khai thực hiện nề nếp sinh hoạt chính trị dưới nghi thức chào cờ đầu tuần tại trụ sở UBND xã, chi bộ xóm, cơ quan, đơn vị và kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đầu giờ buổi sinh hoạt, gắn với tuyên truyền, nêu gương cá nhân tiêu biểu. Các chi bộ, cơ quan, đơn vị đã cụ thể hoá việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác thành các chuẩn mực đạo đức phù hợp để tổ chức thực hiện, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng hoạt động và đổi mới phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo hướng thiết thực, hiệu quả. Đảng bộ xã Khánh Hòa được Huyện ủy đánh giá cao trong việc triển khai thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, Đảng bộ chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức học tập, quán triệt, xây dựng các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng (khóa XII); tổng kết các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương, của tỉnh, huyện đảm bảo nghiêm túc, chất lượng. Coi trọng giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, đồng thời thường xuyên nắm bắt tình hình, làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo thống nhất cao về nhận thức, giữ vững lập trường tư tưởng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới của Đảng, góp phần tích cực thực hiện có hiệu quả và đưa các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, của tỉnh, của huyện vào cuộc sống.

Công tác thông tin, tuyên truyền được quan tâm chỉ đạo, có nhiều đổi mới và có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, đảm bảo tốt định hướng tư tưởng, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng bộ; ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân được nâng lên. Thông tin kịp thời các nhiệm vụ chính trị trọng tâm của địa phương, tình hình thời sự trong huyện, trong tỉnh, của đất nước, khu vực và thế giới; công tác tuyên truyền, nêu gương các điển hình, gương người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực được thực hiện tốt.

Công tác tổ chức xây dựng Đảng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, bám sát nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên, như: duy trì nền nếp giao ban Đảng ủy mở rộng hàng tháng, hàng quý với Thường trực HĐND, lãnh đạo UBND, UBMTTQ, các ngành, đoàn thể, Bí thư các chi bộ, xóm trưởng và cán bộ, công chức chuyên môn xã; phân công cấp ủy viên hàng tháng dự sinh hoạt với chi bộ xóm; chỉ đạo chuẩn bị nội dung sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy theo hướng rõ việc, sát với nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, bước đầu đạt nhiều kết quả tích cực.

Công tác phát triển đảng viên được tập trung chỉ đạo quyết liệt; trong 5 năm (2015-2020) đã kết nạp 56 đảng viên. Số đảng viên mới kết nạp đảm bảo chất lượng và phát huy tốt vai trò tiền phong, gương mẫu. Đến năm 2020, Đảng bộ xã có 370 đảng viên, sinh hoạt ở 16 chi bộ, trong đó có 10 chi bộ nông thôn, 03 chi bộ trường học, 01 chi bộ Y tế, 01 chi bộ Quỹ Tín dụng nhân dân xã và 01 chi bộ Công an xã. Công tác quản lý, giáo dục và rèn luyện đảng viên được chú trọng. Công tác đánh giá, xếp loại tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên hàng năm được thực hiện nghiêm túc, chất lượng, bình quân hằng năm có trên 85% chi bộ xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; sau đánh giá tạo sự chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu của cấp ủy và từng cá nhân cấp ủy viên, đảng viên.

Việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ, nhất là cán bộ nữ có nhiều đổi mới, đảm bảo đúng quy trình, quy định, dân chủ, công khai; công tác bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo đầy đủ các quy định về tiêu chuẩn chức danh theo quy định, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; quan tâm bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ ở những đơn vị cán bộ năng lực yếu, chuyển biến chậm. Thực hiện nghiêm túc công tác điều động, luân chuyển cán bộ. Công tác sắp xếp đội ngũ cán bộ bán chuyên trách ở xã, ở xóm được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo ổn định tình hình; việc sắp xếp cán bộ không chuyên trách đã tạo sự chuyển biến tích cực của đội ngũ cán bộ bán chuyên trách. Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy, cán bộ lãnh đạo Đảng, Chính quyền, đảm bảo nghiêm túc, góp phần nâng cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, bản lĩnh vững vàng, có năng lực, trình độ để hoàn thành nhiệm vụ.

Đảng ủy đã coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát hàng năm của Đảng ủy, UBKT Đảng ủy. Đã tổ chức 68 cuộc kiểm tra, 53 cuộc giám sát đối với tập thể và các cá nhân về thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao; kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; qua kiểm tra đã tập trung xử lý kỷ luật 32 đồng chí đảng viên vi phạm quy định Điều lệ Đảng, vi phạm chính sách pháp luật của Nhà nước, trong đó: (cảnh cáo 9 đồng chí, khiển trách 23 đồng chí). Việc xử lý kỷ luật đảm bảo nghiêm minh, chính xác, kịp thời khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, hạn chế tình trạng vi phạm kỷ luật của tổ chức Đảng và đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

Phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng tiếp tục được đổi mới. Quy chế làm việc của Đảng ủy được xây dựng, bổ sung, điều chỉnh và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong đó, đã xác định rõ những nội dung công việc thuộc thẩm quyền của cấp ủy, những việc cấp ủy cho ý kiến trước khi HĐND, UBND quyết định, tạo điều kiện cho chính quyền và các cơ quan Nhà nước quản lý, điều hành theo pháp luật, khắc phục tình trạng cấp ủy bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo đối với hệ thống chính trị. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, phát huy tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên.

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Trong những năm 2015-2020, Đảng bộ xã Khánh Hòa đã triển khai, thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, của Huyện về công tác dân vận, trọng tâm là Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, phong trào thi đua “Dân vận khéo”. Tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của khối dân vận cơ sở. Thực hiện tốt công tác dân vận chính quyền; vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phát triển kinh tế, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh; phát huy vai trò của nhân dân đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Khối dân vận được củng cố, kiện toàn. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức trong các cơ quan, chính quyền đã có nhiều chuyển biến về nhận thức và hành động trong công tác dân vận, ý thức trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân được nâng lên.

Thực hiện Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 04/01/2016 của Bộ Chính trị “Về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021”, tháng 5 năm 2016, Đảng bộ đã lãnh đạo thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Sau bầu cử, trong kỳ họp thứ nhất, Hội đồng nhân dân đã bầu ra các chức danh chủ chốt trong bộ máy chính quyền. Hoạt động của HĐND được thực hiện đảm bảo đúng luật và quy chế; phương thức hoạt động có nhiều đổi mới, chất lượng hoạt động ngày càng được nâng lên. Các đại biểu HĐND đã đề cao trách nhiệm, giữ mối liên hệ và thực hiện tốt chế độ tiếp xúc cử tri, tiếp công dân; tiếp thu, giải quyết các kiến nghị hợp pháp, chính đáng của cử tri. Hoạt động giám sát của HĐND có nhiều đổi mới; nội dung được tăng cường ở các lĩnh vực mà cử tri quan tâm. Đổi mới, ban hành các Nghị quyết phù hợp, kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương.

Ủy ban nhân dân xã không ngừng nêu cao vai trò, trách nhiệm, chủ động, kịp thời cụ thể hóa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước, của tỉnh, của huyện, của xã về phát triển kinh tế - xã hội vào điều kiện thực tiễn của địa phương, nhất là việc triển khai thực hiện mục tiêu xây dựng xã nông thôn mới. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chú trọng chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Công tác quản lý, đánh giá, thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức đảm bảo đúng quy định, tạo sự đồng thuận cao. Mối quan hệ giữa HĐND với UBND, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, giữa cấp với ngành được thực hiện theo quy chế chặt chẽ, có hiệu quả. Hằng năm, chính quyền xã đạt vững mạnh.

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các hội quần chúng xã đã bám sát nhiệm vụ chính trị, từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng về cơ sở, chăm lo, củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân. Tăng cường thu hút, tập hợp, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho đoàn viên, hội viên; nâng cao chất lượng cán bộ, chất lượng sinh hoạt của các chi đoàn, chi hội, Ban công tác mặt trận khu dân cư. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Quyết định 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua lao động sản xuất, giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, tổ chức Hội vững mạnh. Tập trung triển khai thực hiện các công trình, phần việc tham gia xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới kiểu mẫu. Mỗi tổ chức đều có các sản phẩm, công việc cụ thể, thiết thực, góp phần quan trọng xây dựng xã nhà đạt chuẩn nông thôn mới và xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu như: mô hình vận động nhân dân thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội của Mặt trận Tổ quốc xã; Phát triển chăn nuôi nói không với thực phẩm bẩn của Hội Nông dân xã; Hội Cựu chiến binh với mô hình cải tạo vườn tạp trồng cây cảnh, cây ăn quả; trồng các đường hoa tự quản; Đoàn thanh niên với phong trào “Thắp sáng đường quê”, “Tuyến đường thanh niên kiểu mẫu, sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn”; Hội Phụ nữ với mô hình “Nhà sạch, vườn đẹp”….

Hàng năm các đoàn thể của xã đều được công nhận là đơn vị vững mạnh, góp phần quan trọng trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội của xã nhiều năm liền được xếp loại vững mạnh, xuất sắc.

Thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị; Kế hoạch số 110-KH/HU, ngày 15/11/2019; Hướng dẫn số 10-HD/HU, ngày 15/11/2019 của Ban Thường vụ Huyện ủy về Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, trong 2 ngày 20 và 21/ 5/2020, Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Khánh Hòa lần thứ XXV được tổ chức tại Nhà văn hóa xã. Dự Đại hội có 129 đại biểu chính thức, thay mặt cho tổng số 370 đảng viên trong toàn Đảng bộ.

Đại hội đánh giá kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2015-2020, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền; chủ động, sáng tạo, đổi mới; đoàn kết, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương. Đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa, ứng dụng khoa học công nghệ; đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ; chú trọng phát triển văn hóa xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; giữ vững và tăng cường quốc phòng - an ninh. Xây dựng xã Khánh Hòa theo hướng nông thôn mới kiểu mẫu giàu mạnh, văn minh.

Đại hội thông qua một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Về kinh tế: Tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, ứng dụng công nghệ tiên tiến, gắn với thị trường. Tập trung phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng phục vụ sản xuất và đời sống Phấn đấu đến năm 2025 tỷ trọng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm trên 43%. Tăng cường công tác quản lý đất đai và môi trường. Tăng cường quản lý thu, chi ngân sách; huy động các nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội Nâng cao chất lượng nông thôn mới; tập trung xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu

Về văn hóa - xã hội: Phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục. Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân; đẩy mạnh thực hiện công tác dân số, gia đình và trẻ em. Nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, thông tin, truyền thanh, thể dục thể thao. Thực hiện tốt chính sách giảm nghèo, giải quyết việc làm, chính sách xã hội, người có công với cách mạng.

Về quốc phòng - an ninh: Giữ vững và tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, công tác cải cách tư pháp, phòng chống tham nhũng, công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.

Về công tác xây dựng Đảng: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên. Đổi mới công tác dân vận của hệ thống chính trị, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND, UBND; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ trình độ, năng lực, có tính chuyên nghiệp cao.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2020-2025 gồm 15 đồng chí; bầu Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí. Đồng chí Đào Duy Thắng được bầu làm Bí thư; đồng chí Lê Văn Quyết và đồng chí Hoàng Văn Hùng được bầu làm Phó Bí thư.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nghị quyết đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, nhất là Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXV, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Khánh Hòa tích cực bắt tay vào thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội.

Trong năm 2021 và những tháng đầu năm 2022, trước tình hình dịch bệnh Covid-19 có nhiều diễn biến phức tạp, với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, Đảng ủy tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh và của huyện về phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Xã đã thành lập Ban Chỉ đạo phòng chống dịch bệnh covid-19, thành lập 46 tổ covid cộng đồng trên 10 xóm gồm 138 người.

Đảng ủy chỉ đạo Đài truyền thanh xã và các ngành liên quan phối hợp với các thôn, xóm thường xuyên tuyên truyền, vận động và hướng dẫn người dân về những diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, khuyến cáo người dân luôn bình tĩnh, hạn chế đến nơi tụ tập đông người, không đến nơi có xảy ra dịch. Đặc biệt, tập trung tuyên truyền việc thực hiện nghiêm giải pháp 5K theo khuyến cáo của Bộ Y tế: “Khẩu trang - Khử khuẩn - Khoảng cách - Không tập trung - Khai báo y tế”. Đồng thời, chỉ đạo kịp thời khoanh vùng, rà soát, truy vết, cách ly, tổ chức lấy mẫu sàng lọc các trường hợp liên quan đến các ca F0; kiểm soát chặt chẽ người về từ vùng có dịch; chủ động phương án “4 tại chỗ”, đảm bảo đủ các điều kiện cơ sở vật chất, vật tư y tế cho công tác phòng, chống dịch phù hợp với diễn biến, tình hình dịch bệnh.

Thực hiện Quyết định số 918/QĐ-UBND ngày 10/8/2021, Quyết định số  970/QĐ-UBND của huyện UBND Yên Khánh ngày 26/08/2021 về việc thành lập chốt kiểm tra, kiểm soát Y tế đối với người và phương tiện ra vào huyện Yên Khánh trên tuyến Quốc lộ QL.10 (tại gầm cầu vượt xã Khánh Hòa) từ ngày 12/8/2021 đến ngày 27/10/2021, UBND xã Khánh Hoà đã phối hợp với Công an huyện Yên Khánh thành lập, phân công 04 tổ chia làm 04 ca/ngày; dựng nhà rạp, lắp đặt hệ thống biển báo, hệ thống điện, đèn tín giao thông, mua sắm các trang thiết bị như khẩu trang, tờ khai báo Y tế, máy đo thân nhiệt, sổ theo dõi, nhu yếu phẩm, đặt cơm phục vụ cho các ca trực tại chốt. Trong thời gian 77 ngày thực hiện nhiệm kiểm tra, kiểm soát tại chốt các lực đã kiểm tra trên 26 nghìn lượt người và phương tiện ô tô trọng tải trên 5 tấn ra vào huyện Yên Khánh.

Năm 2022, xã thành lập Trạm y tế lưu động tại Trường Mầm non khu vực Xuân Bình. Trạm y tế lưu động đã tiếp nhận và điều trị khỏi bệnh cho 215 trường hợp. Thường xuyên kiểm soát chặt chẽ đối với các trường hợp cách ly và theo dõi sức khỏe do nghi ngờ nhiễm Covid-19 tại nhà và các trường hợp F1. Tổ chức lấy mẫu xét nghiệm các đối tượng theo đúng quy định. Những người nhiễm covid trên địa bàn đều được điều trị khỏi bệnh, không có trường hợp diễn biến nặng và tử vong.

Xã tổ chức tốt các đợt tiêm phòng vắc xin cho toàn bộ nhân dân. Đến tháng 6 năm 2022, trên địa bàn xã, số người trên 18 tuổi đã tiêm mũi 1, mũi 2 đạt trên 99%; mũi 3 và mũi 4 đạt trên 80%. Việc tiêm phòng vắc xin cho các em học sinh từ 12 - 17 tuổi và từ 5 - 11 tuổi cũng được triển khai thực hiện. Đến tháng 4 năm 2022, dịch bệnh được kiểm soát, mọi sinh hoạt của nhân dân được trở lại bình thường.

Trong điều kiện dịch bệnh Covid-19, cùng với công tác phòng chống dịch, Đảng ủy lãnh đạo thực hiện hiệu quả mục tiêu kép vừa phòng chống dịch vừa phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế tiếp tục duy trì và phát triển trong trạng thái ổn định. Tổng giá trị sản phẩm theo giá hiện hành của 3 ngành: nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ 6 tháng đầu năm 2022 đạt 255,9 tỷ đồng.

Trong nông nghiệp, Đảng ủy tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ theo hướng sản xuất hữu cơ, sản xuất hàng hoá, chú trọng phát triển mở rộng những cây trồng có giá trị kinh tế cao như: cây ổi, cây bưởi, cây cảnh, ngó khoai môn ngọt, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; vận động nhân dân chuyển đổi từ gieo sạ sang cấy để hạn chế sử sụng thuốc bảo vệ thực vật, góp phần bảo vệ môi trường. Tính đến tháng 6 năm 2022, tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 391,1 ha; tổng thu từ trồng trọt đạt gần 26,57 tỷ đồng, giá trị canh tác đạt trên 68,9 triệu/ha. Trong 2 năm (2021-2022), dịch viêm da nổi cục trên đàn bò và dịch tả lợn Châu Phi phát sinh đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc sản xuất chăn nuôi của các hộ gia đình. Trước tình hình đó, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã đã chỉ đạo khoanh vùng dập dịch và tổ chức tiêm vắc-xin trên đàn bò, gia cầm và thuỷ cầm, do đó, dịch bệnh được kiểm soát, ngành chăn nuôi phát triển ổn định. Chăn nuôi gia cầm, thủy cầm đạt số lượng lớn.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được duy trì và có mức tăng trưởng khá. Tháng 6 năm 2022, toàn xã có 226 hộ gia đình, cơ sở sản xuất hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tổng giá trị của ngành là 115,6 tỷ đồng. Các ngành dịch vụ như: ăn uống, nhà hàng, dịch vụ tổ chức sự kiện… do dịch bệnh Covid-19 nên hoạt động có phần bị ảnh hưởng. Một số loại hình dịch vụ khác vẫn duy trì và phát triển tốt. Năm 2021, toàn xã có 312 hộ gia đình tham gia hoạt dịch vụ. Tổng doanh thu đạt 172,6 tỷ đồng.

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới tiếp tục được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đi vào chiều sâu, theo hướng nông thôn mới kiểu mẫu, xã nông thôn mới nâng cao; tập trung vào các tiêu chí phát triển kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện cảnh quan, môi trường nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Năm 2021, Ban Chấp hành Đảng bộ xã ban hành Nghị quyết về lãnh đạo xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, xã nông thôn mới nâng cao, giai đoạn 2021-2024, làm cơ sở để xây dựng đề án nông thôn mới nâng cao. Cùng với đó, Đảng ủy chỉ đạo kiện toàn Ban phát triển thôn ở các đơn vị xóm, hướng dẫn lập phương án xây dựng khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu ở các xóm; xây dựng kế hoạch chỉ đạo xây dựng thành công khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu xóm Rậm và tiếp tục chỉ đạo các xóm còn lại. Phong trào trồng cây của nhân dân, các hoạt động vệ sinh môi trường, xây dựng khu dân cư sáng - xanh - sạch - đẹp và đảm bảo an ninh trật tự được duy trì, đẩy mạnh. Năm 2022, xã khởi công xây dựng tuyến đường bê tông kết hợp kiên cố hóa kênh mương từ xóm Chùa đến xóm Đông, trỉnh trang khuôn viên nhà đa năng, nhà tiếp công dân của xã, nhà Đa năng trường Tiểu học.

Trong thực hiện phong trào chung tay xây dựng nông thôn mới và hỗ trợ gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên địa bàn xã, đã có những người con quê hương thành đạt tài trợ kinh phí, vật chất để cùng với địa phương xây dựng quê hương như chị Phan Thị Bích Hằng, giảng viên khoa kinh tế đối ngoại, Trường Đại học Khoa học - Công nghệ Hà Nội, trong dịp phòng chống đại dịch Covid-19 đã hỗ trợ cho trạm y tế xã 2 máy thở Ôxy để phục vụ cứu chữa bệnh nhân và thăm tặng quà cho các gia đình chính sách, thương binh, liệt sỹ nhân dịp ngày 27/7 hằng năm; anh Phạm Văn Sơn, Giám đốc Công ty TNHH Thanh Hải, quê quán xóm Đông, xã Khánh Hòa đã tài trợ kinh phí nâng cấp tu bổ nhà bia ghi tên các Anh hùng liệt sỹ, lắp đặt hệ thống Camera an ninh trên địa bàn xã, mua sắm màn hình phục vụ các em học sinh trường Tiểu học, trùng tu xây dựng Chùa Dầu với trị giá hơn 600.000.000 đồng và hằng năm tổ chức gặp mặt, tặng quà cho cho các gia đình chính sách, thương binh, liệt sỹ nhân dịp ngày 27/7.

Các hoạt động văn hóa - xã hội được quan tâm chỉ đạo thường xuyên, phù hợp với bối cảnh tình hình dịch bệnh và có bước phát triển. Đối với ngành giáo dục, trong điều kiện dịch bệnh phức tạp, có thời điểm học sinh phải nghỉ học hoặc chuyển sang hình thức học trực tuyến song 3 nhà trường đã tập trung hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học 2020-2021, 2021-2022 và đạt được nhiều thành tích đáng kính lệ. Ngành y tế bên cạnh việc triển khai thực hiện nhiệm vụ phòng chống dịch Covid-19, duy trì thực hiện tốt việc chăm sóc bảo vệ sức khỏe ban đầu cho nhân dân.

Cùng với lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, Đảng bộ tập trung lãnh đạo thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, đảng viên; tăng cường quản lý, phát triển đảng viên. Thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Đảng ủy quản lý. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội hướng về cơ sở, bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương. Năm 2021 và 6 tháng đầu năm 2022, Đảng bộ kết nạp được 9 đảng viên mới. Năm 2022, Đảng ủy lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ tổ chức thành công đại hội chi bộ nhiệm kỳ 2022-2025.

Năm 2021, Đảng ủy lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; sau bầu cử đã kiện toàn các chức danh lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã, các Ban của Hội đồng nhân dân theo đúng định hướng, đề án nhân sự Đại hội; chỉ đạo việc sắp xếp, bố trí cán bộ sau bầu cử đảm bảo sự lãnh đạo thực hiện liên tục các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã có nhiều đổi mới theo hướng có trọng tâm, trọng điểm. Ủy ban nhân dân xã bám sát sự lãnh đạo của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, đã quyết liệt triển khai thực hiện đạt kết quả mục tiêu kép, vừa phòng, chống dịch bệnh Covid-19, vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội; quyết liệt chỉ đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới, thực hiện giải phóng mặt bằng các công trình dự án; đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng chính quyền số và đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo đà cho thực hiện những năm tiếp theo.

Như vậy, trong những năm 2000-2022, mặc dù còn có nhiều khó khăn, thách thức, song Đảng bộ, chính quyền, quân và dân xã Khánh Hòa đã phát huy truyền thống cách mạng, chủ động, năng động, sáng tạo, tăng cường đoàn kết, tích cực phấn đấu đạt được nhiều thành tích. Những kết quả quan trọng và toàn diện mà Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa đã đạt được là điều kiện thuận lợi, nền tảng vững chắc để xã tiếp tục phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn tiếp theo.

KẾT LUẬN

Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Khánh Hòa chìm đắm trong đêm trường nô lệ, cũng như nhân dân cả nước, nhân dân Khánh Hòa đói khổ lầm than, bị bóc lột tận xương tuỷ. Có sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Khánh Hòa phát huy truyền thống yêu nước, vùng dậy đấu tranh chống thực dân phong kiến tay sai giành độc lập tự do. Chi bộ Đảng xã Khánh Hòa ra đời (12/1947) giữ vai trò lãnh đạo phong trào cách mạng của địa phương, đưa phong trào cách mạng Khánh Hòa phát triển từ thấp đến cao, từ xóm thôn đến làng xã, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa Tháng 8 năm 1945. Nhân dân Phương Du, Yên Khang đoàn kết vùng dậy đấu tranh giành chính quyền từ tay bọn hương lý, kỳ hào. Cách mạng thành công, chính quyền dân chủ nhân dân ra đời. Nhân dân lao động làm chủ quê hương, đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân Khánh Hòa tiếp tục đứng lên cùng cả nước tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược, góp phần cùng nhân dân cả nước làm nên chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.

Hòa bình lập lại, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa bắt tay khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng bộ và nhân dân lại sát cánh bên nhau đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Trong các cuộc kháng chiến oanh liệt Khánh Hòa có 120 người con của quê hương lần lượt tòng quân đi chiến đấu chống giặc ngoại xâm hàng trăm thanh niên xung phong và dân công hoả tuyến phục vụ chiến trường. Đóng góp cho Nhà nước hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm gửi ra tiền tuyến, đảm bảo vai trò hậu phương trong kháng chiến, nhất là trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Đảng bộ, nhân dân Khánh Hòa ra sức phấn đấu “mỗi người làm việc bằng hai”, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc (30/4/1975) giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Đất nước thống nhất, Đảng bộ, nhân dân Khánh Hòa bắt tay xây dựng quê hương, cùng cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện sự nghiệp đổi mới.

75 năm, với 25 kỳ Đại hội chi bộ, đảng bộ, mỗi kỳ Đại hội, Đảng bộ Khánh Hòa có bước trưởng thành trong lãnh đạo và chỉ đạo nhân dân thực hiện các phong trào cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Khánh Hòa là khu du kích, là căn cứ địa tuyến đầu của huyện, sẵn sàng chi viện, giúp sức tham gia chiến đấu diệt tề phá ngụy cùng đơn vị bạn tạo thế liên hoàn, mở rộng địa bàn hoạt động cách mạng trong vùng kháng chiến chống Mỹ, nơi đây lại là trạm trung chuyển người và của cho tiền tuyến miền Nam. Nhiều cơ quan của Đảng, chính quyền đoàn thể, ngành, giới của huyện, tỉnh sơ tán làm việc nhiều năm an toàn.

Vùng đất Khánh Hòa chứa đựng nhiều tiềm năng, thế mạnh, con người nơi đây hiền hoà, chất phác, năng động trong lao động xây dựng quê hương; kiên trung, dũng cảm trong chiến đấu. Lao động và đấu tranh đã xây dựng và hình thành lòng thuỷ chung bám đất, bám làng, năng động, sáng tạo từ thế hệ này qua thế hệ khác của nhân dân Khánh Hòa.

75 năm đấu tranh, xây dựng và trưởng thành, mảnh đất và con người nơi đây có lúc thăng, trầm xong cán bộ, đảng viên, nhân dân luôn đoàn kết một lòng hướng tới tương lai, kể cả những lúc cam go nhất. Niềm tin vào Đảng là động lực cơ bản để nhân dân Khánh Hòa vượt qua khó khăn, thử thách, giành thắng lợi trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm cũng như trong xây dựng quê hương, đất nước.

Với thành tích đóng góp về người và của qua các thời kỳ cách mạng, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa được Đảng, Nhà nước tặng thưởng 1.105 Huân, Huy chương các loại cho các gia đình và cá nhân có thành tích trong kháng chiến (Huân chương kháng chiến chống Mỹ có 238, Huân chương Chiến sỹ vẻ vang có 365, Huân chương Chiến công có 354, Huy chương kháng chiến chống Pháp có 38, chống Mỹ có 77, Huân chương chiến sĩ giải phóng 33 chiếc).

Chặng đường lịch sử đấu tranh cách mạng 75 năm qua của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa đã đúc rút được những bài học kinh nghiệm quý báu. Những kinh nghiệm đó không chỉ có giá trị truyền thống cách mạng mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ xã Khánh Hòa trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương giai đoạn hiện nay:

Một là, phải nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng và Đảng bộ các cấp, đồng thời vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương, để kịp thời đề ra những quyết sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, chi bộ, sau này là Đảng bộ Khánh Hòa luôn nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng và cấp ủy cấp trên, trên cơ sở đó, căn cứ vào điều kiện thực tế của địa phương để đề ra nhiệm vụ sát hợp, tránh sai lầm và không sát với thực tế.

Hai là, Đảng bộ thường xuyên chăm lo phát triển, củng cố, xây dựng đảng vững mạnh. Trong mọi giai đoạn cách mạng, những thành tích, yếu kém những ưu điểm, khuyết điểm trong xây dựng và bảo vệ quê hương gắn liền với sự lãnh đạo của đảng. Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ luôn luôn coi trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng trong mọi thời kỳ đã cử nhiều cán bộ đi học các trường ở tỉnh và huyện... Thường xuyên chăm lo xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ, trong quy hoạch có hai ba thế hệ để vừa phục vụ trước mắt và lâu dài.

          Đảng bộ xã Khánh Hòa quán triệt và thực hiện nghiêm túc, sáng tạo các nghị quyết của Đảng, giữ vững tăng cường bản chất giai cấp công nhân của đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên. Củng cố tổ chức, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chăm lo xây dựng đội ngũ, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo,tăng cường công tác kiểm tra và kỷ luật đảng. Lãnh đạo chính quyền, phát huy vai trò của hội đồng nhân dân, nâng cao năng lực quản lý điều hành của Uỷ ban nhân dân. Chăm lo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, phát huy vai trò là lực lượng xung kích, là đội quân hậu bị của đảng. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể theo chức năng và thẩm quyền để tập hợp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng.

Trong mọi hoàn cảnh, đảng viên phải luôn phát huy vai trò tiền phong gương mẫu, tự rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng “Xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; đảng bộ thường xuyên làm tốt công tác phát triển đảng viên mới, bồi dưỡng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng vai trò của Đảng cầm quyền. Tổ chức đảng vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực, phẩm chất là điều kiện tiên quyết để dẫn dắt phong trào trong xã đến mọi thắng lợi. Cải tiến nội dung sinh hoạt đảng, bảo đảm tính chiến đấu, tính giáo dục, tính lãnh đạo. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc đấu tranh phê bình và tự phê bình. Tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh thì dân tin đảng, mối quan hệ đảng với dân, dân với đảng ngày càng gắn bó chặt chẽ.

Ba là, Đảng bộ luôn chăm lo xây dựng khối đoàn kết toàn dân để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Do từ sớm đã nhận thức được sức mạnh to lớn của sự đoàn kết trong nhân dân, với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng bộ luôn quan tâm việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy cao độ truyền thống yêu nước và cách mạng của quê hương vào việc tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ cách mạng. Trên cơ sở đó, trong quá trình lãnh đạo thực hiện đường lối của Đảng, Đảng bộ tập trung xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Mặt trận và các đoàn thể vững mạnh để tập hợp các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh.

Bốn là, phát huy nội lực sử dụng có hiệu quả nguồn phân bổ của tỉnh, của huyện và các ngành tạo sức mạnh tổng hợp cả vật chất và tinh thần trong phong trào cách mạng của địa phương. Xây dựng cơ sở cách mạng bền vững, đấu tranh giành thắng lợi từng phần tiến tới thắng lợi hoàn toàn.

Chặng đường lịch sử 75 năm đấu tranh xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa là niềm tự hào của các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân xã nhà, là động lực, nguồn cổ vũ lớn lao để các thế hệ người dân Khánh Hòa tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, phấn đấu vươn lên khắc phục mọi khó khăn giành nhiều thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục viết lên những trang sử mới, tô thắm thêm lịch sử vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa. Phấn đấu cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.

PHỤ LỤC

I. Các kỳ đại hội chi bộ, đảng bộ và các đồng chí Bí thư Đảng bộ xã Khánh Hoà (1947-2022)

* Từ tháng 1/1995-8/1995 đồng chí Bùi Viết Tý quyền Bí thư

II. Danh sách các đồng chí Chủ tịch UBND cách mạng lâm thời, UBKC, UBHCKC, UBHC, UBND xã Khánh Hòa (1947-2022)

 

TT

Họ và tên

Tên xã

Ghi chú

1

Phạm Thư Hương

Phương Du

 

2

Phan Văn Thuý

Yên Khang

 

3

Phan Văn Thuý

Khang Du

 

4

Phạm Khắc Thuý

xã Khánh Hòa

 

5

Tạ Văn Tới

xã Khánh Hòa

xã hợp nhất (Khang Du, Yên Vệ, Tân An)

6

Đinh Văn Mỹ

xã Khánh Hòa

xã hợp nhất (Khang Du, Yên Vệ, Tân An)

7

Phạm Văn Mịch

xã Khánh Hòa

xã hợp nhất (Khang Du, Yên Vệ, Tân An)

8

Phạm Quang Bình

xã Khánh Hòa

  xã mới (Khánh Hòa, Khánh Phú, Khánh An)

9

Phạm Ngọc Truyền

xã Khánh Hòa

 

10

Lê Văn Hoằng

xã Khánh Hòa

 

11

Phan Văn Siêu

xã Khánh Hòa

 

12

Lê Xuân Cán

xã Khánh Hòa

 

13

Vũ Văn Kha

xã Khánh Hòa

 

14

Lê Văn Khánh

Xã Khánh Hòa

 

15

Phạm Thị Nhất

Xã Khánh Hòa

 

16

Phạm Đức Quý

Xã Khánh Hòa

 

17

Nguyễn Văn Dương

Xã Khánh Hòa

 

18

Vũ Văn Luận

Xã Khánh Hòa

 

19

Hoàng Văn Hùng

Xã Khánh Hòa

 

III. Danh sách các đồng chí Chủ tịch HĐND xã (1994 - 2022)

TT

Họ và tên

Thời gian

Ghi chú

1

Phan Văn Dân

1994 - 2004

 

2

Trịnh Thị Mậu

2004- 2009

 

3

Nguyễn Văn Dương

2010 - 5/2020

 

4

Lê Văn Quyết

6/2020 - đến nay

 

IV. Danh sách Bà mẹ Việt Nam anh hùng

TT

Họ và tên

Năm sinh

Số người thân là liệt sỹ

Ghi chú

1

Đinh Thị Hường

1907

Có 1 con duy nhất là liệt sỹ chống Pháp

xóm Nội

2

Vũ Thị Lấn

1917

Có 1 con duy nhất là liệt sỹ chống Mỹ

xóm Rậm

3

Phan Thị Chấn

1926

Có 2 con là liệt sỹ chống Mỹ

xóm Xuân

4

Phạm Thị Thuỷ

 

Có 2 con là liệt sỹ 01 chống Pháp, 01 chống Mỹ

xóm Đông

5

Lê Thị Ốc

 

Có 2 con là liệt sỹ 01chống Pháp, 01 chống Mỹ

xóm Thuần Đầu

V. Danh sách Liệt sỹ xã Khánh Hòa

STT

Họ và tên

Năm sinh

Năm nhập ngũ

Năm hy sinh

1

Phạm Văn Sộp

1908

1950

1951

2

Vũ Văn Giang

1923

1947

1951

3

Phạm Văn Nhã

1924

1946

1947

4

Vũ Văn Phác

1930

1945

1948

5

Phan Văn Nhỡn

1920

1939

1951

6

Phạm Như Xuân

1926

1947

1954

7

Phan Văn Sửu

1931

1947

1951

8

Phạm Văn Thiếp

1930

1947

1951

9

Vũ Văn Ngư

1920

1945

1947

10

Vũ Văn Điềm

1930

1945

1947

11

Đào Văn Vượng

1928

*

1950

12

Nguyễn Văn Nhị

1928

1949

1951

13

Ngô Văn Kình

1928

1945

1951

14

Trịnh Văn Nhận

*

1949

1950

15

Vũ Văn Kinh

1933

1949

1953

16

Phạm Văn Mấm

1906

1948

21/5/1952

17

Phạm Văn Vụ

1925

1948

1952

18

Trịnh Trọng Soạn

1928

1947

1950

19

Phạm Văn Chung

1930

1949

1954

20

Vũ Văn Chơi

1920

1947

1959

21

Phan Văn Tý

1948

1968

1970

22

Lê Văn Toản

1946

1964

1968

23

Trịnh Trọng Cớt

1948

1966

1968

24

Lê Hồng Lân

1945

1964

1965

25

Phan Như Năng

1945

1968

1968

26

Phạm Văn Kính

1944

1963

1968

27

Phạm Ngọc Ngà

1939

1964

1968

28

Phạm Văn Nhiên

1943

1963

1969

29

Bùi Văn Cảnh

1948

1967

1971

30

Trịnh Văn Thược

1945

8/1970

10/1975

31

Vũ Hồng Sơn

1940

1966

9/1967

32

Phạm Quyết Tiến

1946

1968

1970

33

Vũ Khắc Tôn

1946

1968

1971

34

Bùi Văn Thành

1944

1972

1974

35

Phạm Văn Vanh

1940

1965

1968

36

Nguyễn Văn Lâm

1948

1968

1974

37

Đồng Xuân Nghinh

1941

1963

1966

38

Trịnh Xuân Cấp

1945

1968

1968

39

Lê Hồng Can

1949

1969

1972

40

Đỗ Công Hàm

1930

1961

1970

41

Phạm Tiến Ca

1949

1966

1972

42

Phạm Xuân Xướng

1954

1972

1979

43

Nguyễn Mạnh Hàn

1944

1965

1968

44

Nguyễn Văn Tế

1941

1968

1970

45

Phan Đình Tần

1940

1962

1965

46

Trịnh Hồng Hoà

1947

1968

1972

47

Trịnh Văn Khiêm

1943

1962

1970

48

Vũ Văn Thưới

1950

1972

1973

49

Phạm Văn Hán

1927

1954

1965

50

Phan Văn Chấn

1940

1970

1972

51

Phạm Văn Châu

1932

1959

1968

52

Trịnh Xuân Thắng

1952

1965

1972

53

Phạm Văn Niễm

1938

1962

1968

54

Trịnh Thế Lữ

1946

1964

1967

55

Phạm Văn Huấn

1937

1963

1965

56

Phạm Văn Thự

1951

1970

1972

57

Phạm Văn Phùng

1948

1971

1972

58

Phạm Văn Mấn

1946

1963

1967

59

Phạm Xuân Diệu

1948

1968

1972

60

Phạm Văn Tới

1939

1964

1968

61

Phạm Văn Lân

1937

1959

1964

62

Phạm Văn Ty

1946

1965

1970

63

Phạm Văn Hán

1941

1965

1970

64

Nguyễn Văn Hiều

1940

1963

1967

65

Phạm Văn Kẻ

1951

1968

1970

66

Phạm Văn Chư

1937

1962

1965

67

Phạm Văn Viên

1953

1971

1974

68

Trịnh Quốc Dũng

1954

1968

1970

69

Phạm Quang Dốc

1939

1965

1972

70

Vũ Văn Minh

1950

1971

1972

71

Nguyễn Đức Thịnh

1946

1965

1966

72

Nguyễn Văn Đức

1948

1966

1968

73

Phạm Văn Nam

1950

1968

1969

74

Nguyễn Văn Nhu

1948

1964

1968

75

Trịnh Duy Cương

1948

1963

1970

76

Đinh Công Kính

1950

1967

1971

77

Trịnh Văn Thiều

1943

1962

1969

78

Lê Văn Khôi

1946

1965

1968

79

Vũ Văn Đề

1954

1970

1974

80

Phạm Văn Hiển

1939

1963

1968

81

Nguyễn Quang Khải

1942

1959

1972

82

Nguyễn Văn Bang

1940

1961

1966

83

Phạm Thị Nga

1951

1972

1972

84

Phan Văn Rô

1948

1968

1968

85

Phạm Thế Hùng

1954

1971

1972

86

Trịnh Xuân Thợi

1944

1966

1968

87

Phan Văn Lạp

1945

1968

1969

88

Vũ Hồng Ninh

1950

1969

1974

89

Nguyễn Văn Mẫu

1950

1969

1970

90

Nguyễn Mạnh Hùng

1945

1972

1974

91

Vũ Mạnh Thắng

1946

1964

1967

92

Bùi Mạnh Thắng

1953

1971

1972

93

Phan Văn Huệ

1946

1964

1968

94

Vũ Duy Bằng

1942

1966

1969

95

Phạm Văn Hòa

1947

1968

1972

96

Trịnh Ngọc Bích

1948

1966

1968

97

Phạm Văn Đạo

1946

1968

1968

98

Phan Văn Hội

1942

1967

1972

99

Vũ Văn San

1935

*

1972

100

Trịnh Xuân Nhật

1944

1975

1979

101

Phan Văn Bẩy

1954

*

1978

102

Vũ văn Cót

1960

1977

1978

103

Nguyễn Văn Sơn

1960

1978

1978

104

Phạm Văn Soai

1957

1978

1978

105

Phan Văn La

1960

1978

1978

106

Phạm Văn Đoàn

1960

1978

1978

107

Trịnh Kim Vĩnh

1958

1978

1978

108

Vũ Đức Khẩn

1961

1979

1980

109

Phạm Văn Khánh

1947

1965

1976

110

Phan Văn Điềm

1960

1978

1978

111

Nguyễn Đức Động

1955

1973

1978

112

Phan Văn Lưu

1954

1973

1979

113

Hoàng Văn Mỹ

1958

1978

1979

114

Phan Văn Lanh

1960

1979

1981

115

Phan Văn Ích

1948

1977

1977

116

Trịnh Quốc Hường

1963

1983

1984

117

Phạm Văn Thu

1960

1978

1978

118

Bùi Thế Lữ

1954

1976

1979

119

Phạm Văn Chất

1960

1978

1979

120

Phạm Văn Ngư

     1957

 

28/9/1998 (tái phát vết thương)

VI. Di tích lịch sử - văn hoá

Chùa Dầu (Phủ Dầu) được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia do Bộ Văn hoá - Thông tin cấp ngày 24/3/1993.

VII. Danh sách con em quê hương xã Khánh Hòa thành đạt trên mọi lĩnh vực công tác

STT

Họ và tên

Năm sinh

Quê quán

Học vị

Chức vụ công tác

Nơi làm việc

Chỗ ở hiện nay

1

Phạm Thanh Dưỡng

1935

xóm Thuần Đầu

 

Nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình

Đã nghỉ hưu

Xóm Thuần Đầu

2

Phạm Quang Bình

1927

xóm Đông

 

Nguyên Thường vụ Huyện ủy, nguyên PCT UBND huyện Yên Khánh

Đã nghỉ hưu

Xóm Đông

3

Trịnh Thế Hưng

1935

xóm Ngoại

Đại tá

Nguyên cán bộ, Bộ Chỉ huy Quân khu Thủ đô Hà Nội

Đã nghỉ hưu

Xóm Ngoại

4

Phan Hồng Chấn

1953

xóm Nội

Đại tá

Nguyên Giảng viên Học viện Quân sự Quốc phòng

Học viện Quân sự Quốc phòng

Số nhà 217, tổ 50, phường Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội

5

Phạm Thế Khoản

1957

xóm Thuần Đầu

Đại tá

Phụ trách bộ phận đào tạo giúp bạn Campuchia

Thành phố Hồ Chí Minh

Phường 12, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh

6

Phạm Thanh Việng

1957

Xóm Thuần Đầu

 

Nguyên Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình

Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình

Phường Ninh Phúc, thành phố Ninh Bình

7

Đồng Thị Huệ

1957

Xóm Ngoại

Thạc sỹ

Nguyên phó Hiệu trưởng Trường THPT Đinh Tiên Hoàng, thành phố Ninh Bình

Trường THPT Đinh Tiên Hoàng, thành phố Ninh Bình

Xóm Chợ Dầu

8

Phan Thị Bích Hằng

1971

Xóm Xuân

Thạc sỹ

Giảng viên Khoa kinh tế đối ngoại, Trường Đại học Khoa học - công nghệ Hà Nội

Trường Đại học Khoa học - công nghệ Hà Nội

Phố Hương Viên, phường Đống Mát, quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

9

Bùi Viết Tý

1957

Xóm Thượng I

 

Nguyên Huyện ủy viên, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Yên Khánh

 

 

10

Phạm Văn Sơn

1959

Xóm Đông

 

Giám đốc Công ty TNHH Thanh Hải - Ninh Bình

 

Số nhà 46, phố 9, phường Vân Giang, TP Ninh Bình

 

Danh sách liên quan
Khảo sát

Bạn quan tâm mục gì nhất trong Website của chúng tôi?